![]() |
Ảnh minh họa. (Ảnh: danchimviet.info) |
Phạm Thị Hoài: Chúng ta thử hình dung, một ngày nào đó không xa, trong vòng một thập niên tới, Việt Nam sẽ chuyển thành công từ thể chế độc quyền dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam sang dân chủ đa nguyên, với nhà nước pháp quyền dựa trên tam quyền phân lập, với tự do tư tưởng và ngôn luận, tự do hội họp và xã hội dân sự.
Khi đó, cái di sản kéo dài gần ba phần tư thế kỉ ở miền Bắc và gần một nửa thế kỉ trên toàn quốc đó sẽ đặt chế độ mới trước những thử thách nào?
Xã hội Việt Nam sẽ cần bao nhiêu lâu để vượt qua di sản đó?
Hoàng Hưng: Vâng, tôi luôn tin rằng cái ngày ấy sẽ đến với đất nước mình, dù không chắc lắm sẽ là 10 năm, biết đâu sớm hơn, hay phải gấp đôi thời gian… thôi thì cứ lấy câu của cụ Hồ dạo nào “5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa…”.
Cái di sản kéo dài của xã hội cũ thực ra đã bị (được) giải trừ một cách đều đều tuy chậm chạp và lúc tiến lúc lùi kể từ những ngày “Đổi mới” cuối thập niên 1980. Chỉ cách đây vài năm thôi, ai có thể hình dung một hệ thống truyền thông “lề trái” hoạt động hữu hiệu, chiếm được lòng tin và ngưỡng mộ của hàng triệu netizen, một bộ phận tinh hoa của dân tộc; hay những cuộc biểu tình liên tục đầy khí phách của nhiều tầng lớp dân chúng ngay giữa lòng thủ đô bất chấp những thủ đoạn đàn áp man rợ và hèn hạ của cường quyền? Nhưng di sản của quá khứ quá nặng nề, có hệ thống và lan tỏa sâu, rộng đến từng tế bào của xã hội, đã kết thành ung thư, chắc chắn sẽ không chỉ một lần di căn ngay cả trong chế độ dân chủ non trẻ tương lai. Giải phẫu để cắt bỏ không chỉ một lần là xong. Cứ nhìn hiện trạng của nước Nga “dân chủ” trong tay một cựu KGB thì biết.
Tôi muốn nói đến cái lõi của cái lõi: Di sản này được xây đắp trên nền tảng con người cá nhân bị phủ định và thay thế bằng con người công cụ cho những thế lực tích hợp thần quyền với thế quyền. Có nguồn gốc từ hàng ngàn năm chuyên chế của các “Con trời”, di sản ấy được chế độ toàn trị mang danh “Lý tưởng” phát huy một cách hữu hiệu, hoàn thiện một cách triệt để chưa từng có. Phải thừa nhận rằng nền tảng kia đã bị phá tan hoang trong thập kỷ vừa qua, Cái Tôi xổng xích hối hả đòi lại mình bằng mọi giá. Nhưng Thượng đế-Lý tưởng chết toi rồi mà như loài ốc mượn hồn còn để lại cái xác cho Cái Tôi tinh quái núp bên trong thò càng đánh quả. Sự biến dạng quái đản đưa tới hậu quả là Con Người Việt Nam hôm nay đứng trước nguy cơ sa xuống tầng thấp nhất của nhân cách: từ an phận, ích kỷ, giả dối, hèn nhát, vô cảm đến đểu giả, trơ trẽn, gian ác. Cho nên tôi tin rằng di sản của chế độ cũ chỉ có thể vượt qua một cách rốt ráo khi nào đa số người dân tự giác được hai mặt đối lập biện chứng: Quyền Tự Do của cá nhân đối với cộng đồng (mà Nhà nước chỉ là một trong các định chế đại diện), đồng thời Trách Nhiệm của nó đối với cộng đồng (mà pháp luật chỉ là một hình thái mang tính cưỡng chế của khế ước xã hội). Tôi coi tính tự giác hai mặt ấy là bản chất cốt lõi của “Con người mới”. Ta có thể thấy loại người này đang hình thành ngày càng đông đảo, không đến nỗi quá hiếm như nhiều người bi quan. Nhưng để nó trở thành nền tảng vững chắc cho xã hội mới, phải mất ít ra nửa thế kỷ giải độc và dưỡng sinh cho cơ thể dân tộc, mà việc hình thành một chế độ chính trị dân chủ pháp quyền là điều kiện tiên quyết .
Phạm Thị Hoài: Theo anh, có những điểm sáng hay truyền thống tốt đẹp nào từ cái di sản đó cần được giữ gìn?
Hoàng Hưng: Có, đó là lòng yêu nước. Những kẻ cầm quyền truyền thống rất biết lợi dụng nó: “Trung quân” bao giờ cũng gắn với “ái quốc” (và hiện tại đang phải đối mặt với nguy cơ đánh mất tính chính danh cũng vì nó). Lòng yêu nước sẽ vẫn có tác dụng rất mạnh với ngưới Việt, với điều kiện nó phải được giải trừ óc hẹp hòi, cực đoan, bài ngoại xuất phát từ mặc cảm nhược tiểu hình thành trong hoàn cảnh bị xâm lược và đô hộ trường kỳ, phải được giải phóng khỏi tâm lý bảo thủ những truyền thống lạc hậu vốn cứ bị nhập nhèm với “bản sắc dân tộc”. (Giờ đây chắc chúng ta đã thấm thía rằng chính chủ nghĩa dân tộc mù quáng đã khiến nước ta không có được cơ may như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan… tiếp nhận văn minh phương Tây mà tránh được ách nô lệ của các đế quốc phương Tây). Có như thế lòng yêu nước mới hòng trở thành động lực để người Việt biết hổ thẹn vì cái đói, cái hèn yếu, cái sự ngày càng tụt hậu của mình, thật tâm học tập để vươn lên hội nhập bình đẳng với nhân loại văn minh.
Phạm Thị Hoài: Khả năng diễn ra trong hòa bình của bước ngoặt đó lớn tới mức nào, hay tình trạng bạo loạn mà nhiều người tiên đoán và dùng đó làm lập luận chống thay đổi thể chế sẽ xảy ra?
Hoàng Hưng: Tôi tin ở khả năng “diễn biến hòa bình từ trên xuống” trong hoàn cảnh áp lực từ ngoài vào và từ dưới lên. Bất ngờ Myanmar vừa rồi càng củng cố niềm tin của tôi. Sự manh động của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông vừa qua là một biến cố ngẫu nhiên (về thời điểm, tuy xét về lâu dài là tất yếu) vô cùng thuận lợi cho hai áp lực nói trên. Đại hội ĐCSTQ sắp tới sẽ có thể là một áp lực có tính đột phá tiếp theo. Nếu nó quyết định dứt khoát một trong hai ngả: hoặc Diều hâu, hoặc Bồ câu trong cả đối nội lẫn đối ngoại, nó cũng sẽ tạo cơ hội rất lớn cho bước chuyển mình của thể chế Việt Nam. Sự sống còn của dân tộc sẽ buộc lãnh đạo đất nước phải chấp nhận dân chủ hóa để có được sự sát cánh của nhân dân mình và sự ủng hộ của Phương Tây khi đối phó với phái Diều hâu lên ngôi ở Phương Bắc. Ngược lại, quyết định dân chủ hóa để tự cứu nguy của anh “láng giềng gần” trước khủng hoảng kinh tế-chính trị nội bộ sẽ được người học trò truyền thống ở Phương Nam này bắt chước tắp lự. Xấu nhất sẽ là kịch bản nước đôi, lùng nhùng như lâu nay ở cả hai nước. Khi ấy một buổi sáng tỉnh dậy ta sẽ phải đau đớn chứng kiến đất nước mình đã trở thành một thuộc quốc từ đêm hôm qua, rất lâu trước khi có thể trông thấy nó trở thành một quốc gia dân chủ. Vì có một thực tế đáng buồn trong lịch sử vẫn đang tiếp tục diễn ra hôm nay: Người Việt Nam luôn sẵn sàng chống lại sự xâm lăng bằng súng đạn (không hiểu tâm lý dân tộc này, người Mỹ đã mắc phải sai lầm chết người khi muốn nhập khẩu tự do, dân chủ vào xứ này qua họng súng của các chú G.I.), nhưng lại hồ hởi nuốt ngon lành những món thuốc độc từ bên ngoài chỉ cần làm dịu tức thời cơn đói trước mắt (như những món anh bạn thâm nho của chúng ta vẫn gieo rắc hàng ngày trong bữa ăn, đồ dùng và… trên tivi của dân ta).
Phạm Thị Hoài: Trước khi ngày đó tới, anh sẽ làm gì trong năm 2012 này?
Hoàng Hưng: Vai trò của trí thức ngày càng thể hiện rõ trong công cuộc vận động dân chủ hóa đất nước. Ngày càng đông những cá nhân có tâm huyết và tầm nhìn đứng lên thức tỉnh quần chúng, kể cả những Đảng viên cộng sản lão thành giác ngộ. Nay đã đến lúc chín muồi cho sự ra đời các tổ chức xã hội dân sự, bước tiến mới tất yếu của công cuộc này. Công cuộc vận động dân chủ khi ấy sẽ có một chất lượng mới, tạo áp lực đi đến chuyển đổi từ triều đình. Tôi nghĩ đây sẽ là trọng trách của lớp người trung niên và trẻ có tiềm lực về nhiều mặt, trong đó có sức khỏe và thời gian. Tôi tự biết mình chỉ là một trong số mấy “anh già văn nghệ” vì ý thức công dân không thể nhắm mắt trước hiện tình khốn quẫn của dân tộc, cực chẳng đã mới phải lên tiếng khơi ra vài việc có tính mở màn, cũng là không hổ thẹn với lương tâm. Chứ chúng tôi thật sự không có năng lực theo đuổi công việc vận động chính trị một cách chuyên nghiệp. Giờ đây, chẳng còn bao sức lực và thời gian, tôi muốn tập trung vào hai việc quen thuộc với mình. Một là tiếp tục giới thiệu văn học thế giới cho bạn đọc Việt Nam như vẫn làm. Việc mới là hỗ trợ những nỗ lực hiện đại hóa giáo dục của một nhóm tình nguyện hết sức quý báu do bạn vong niên Phạm Toàn – Châu Diên tổ chức (nhóm Cánh Buồm). Với việc làm rất cụ thể là soạn ra một bộ sách giáo khoa mới cho cấp Tiểu học, chẳng cần quan tâm Bộ Giáo dục có ngó ngàng gì đến hay không, nhóm này gây bất ngờ trong một xã hội quá quen thói "xin-cho". Một cách tiếp cận mới mẻ, đầy tính xã hội dân sự. Tôi nghĩ đó chính là những đóng góp thiết thực vào công cuộc giải độc và dưỡng sinh cho cơ thể dân tộc Việt Nam về lâu dài, những việc mà người trí thức không thể đợi đến khi có chế độ dân chủ pháp quyền thực sự thì mới làm.
Khi đó, cái di sản kéo dài gần ba phần tư thế kỉ ở miền Bắc và gần một nửa thế kỉ trên toàn quốc đó sẽ đặt chế độ mới trước những thử thách nào?
Xã hội Việt Nam sẽ cần bao nhiêu lâu để vượt qua di sản đó?
Hoàng Hưng: Vâng, tôi luôn tin rằng cái ngày ấy sẽ đến với đất nước mình, dù không chắc lắm sẽ là 10 năm, biết đâu sớm hơn, hay phải gấp đôi thời gian… thôi thì cứ lấy câu của cụ Hồ dạo nào “5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa…”.
Cái di sản kéo dài của xã hội cũ thực ra đã bị (được) giải trừ một cách đều đều tuy chậm chạp và lúc tiến lúc lùi kể từ những ngày “Đổi mới” cuối thập niên 1980. Chỉ cách đây vài năm thôi, ai có thể hình dung một hệ thống truyền thông “lề trái” hoạt động hữu hiệu, chiếm được lòng tin và ngưỡng mộ của hàng triệu netizen, một bộ phận tinh hoa của dân tộc; hay những cuộc biểu tình liên tục đầy khí phách của nhiều tầng lớp dân chúng ngay giữa lòng thủ đô bất chấp những thủ đoạn đàn áp man rợ và hèn hạ của cường quyền? Nhưng di sản của quá khứ quá nặng nề, có hệ thống và lan tỏa sâu, rộng đến từng tế bào của xã hội, đã kết thành ung thư, chắc chắn sẽ không chỉ một lần di căn ngay cả trong chế độ dân chủ non trẻ tương lai. Giải phẫu để cắt bỏ không chỉ một lần là xong. Cứ nhìn hiện trạng của nước Nga “dân chủ” trong tay một cựu KGB thì biết.
Tôi muốn nói đến cái lõi của cái lõi: Di sản này được xây đắp trên nền tảng con người cá nhân bị phủ định và thay thế bằng con người công cụ cho những thế lực tích hợp thần quyền với thế quyền. Có nguồn gốc từ hàng ngàn năm chuyên chế của các “Con trời”, di sản ấy được chế độ toàn trị mang danh “Lý tưởng” phát huy một cách hữu hiệu, hoàn thiện một cách triệt để chưa từng có. Phải thừa nhận rằng nền tảng kia đã bị phá tan hoang trong thập kỷ vừa qua, Cái Tôi xổng xích hối hả đòi lại mình bằng mọi giá. Nhưng Thượng đế-Lý tưởng chết toi rồi mà như loài ốc mượn hồn còn để lại cái xác cho Cái Tôi tinh quái núp bên trong thò càng đánh quả. Sự biến dạng quái đản đưa tới hậu quả là Con Người Việt Nam hôm nay đứng trước nguy cơ sa xuống tầng thấp nhất của nhân cách: từ an phận, ích kỷ, giả dối, hèn nhát, vô cảm đến đểu giả, trơ trẽn, gian ác. Cho nên tôi tin rằng di sản của chế độ cũ chỉ có thể vượt qua một cách rốt ráo khi nào đa số người dân tự giác được hai mặt đối lập biện chứng: Quyền Tự Do của cá nhân đối với cộng đồng (mà Nhà nước chỉ là một trong các định chế đại diện), đồng thời Trách Nhiệm của nó đối với cộng đồng (mà pháp luật chỉ là một hình thái mang tính cưỡng chế của khế ước xã hội). Tôi coi tính tự giác hai mặt ấy là bản chất cốt lõi của “Con người mới”. Ta có thể thấy loại người này đang hình thành ngày càng đông đảo, không đến nỗi quá hiếm như nhiều người bi quan. Nhưng để nó trở thành nền tảng vững chắc cho xã hội mới, phải mất ít ra nửa thế kỷ giải độc và dưỡng sinh cho cơ thể dân tộc, mà việc hình thành một chế độ chính trị dân chủ pháp quyền là điều kiện tiên quyết .
Phạm Thị Hoài: Theo anh, có những điểm sáng hay truyền thống tốt đẹp nào từ cái di sản đó cần được giữ gìn?
Hoàng Hưng: Có, đó là lòng yêu nước. Những kẻ cầm quyền truyền thống rất biết lợi dụng nó: “Trung quân” bao giờ cũng gắn với “ái quốc” (và hiện tại đang phải đối mặt với nguy cơ đánh mất tính chính danh cũng vì nó). Lòng yêu nước sẽ vẫn có tác dụng rất mạnh với ngưới Việt, với điều kiện nó phải được giải trừ óc hẹp hòi, cực đoan, bài ngoại xuất phát từ mặc cảm nhược tiểu hình thành trong hoàn cảnh bị xâm lược và đô hộ trường kỳ, phải được giải phóng khỏi tâm lý bảo thủ những truyền thống lạc hậu vốn cứ bị nhập nhèm với “bản sắc dân tộc”. (Giờ đây chắc chúng ta đã thấm thía rằng chính chủ nghĩa dân tộc mù quáng đã khiến nước ta không có được cơ may như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan… tiếp nhận văn minh phương Tây mà tránh được ách nô lệ của các đế quốc phương Tây). Có như thế lòng yêu nước mới hòng trở thành động lực để người Việt biết hổ thẹn vì cái đói, cái hèn yếu, cái sự ngày càng tụt hậu của mình, thật tâm học tập để vươn lên hội nhập bình đẳng với nhân loại văn minh.
Phạm Thị Hoài: Khả năng diễn ra trong hòa bình của bước ngoặt đó lớn tới mức nào, hay tình trạng bạo loạn mà nhiều người tiên đoán và dùng đó làm lập luận chống thay đổi thể chế sẽ xảy ra?
Hoàng Hưng: Tôi tin ở khả năng “diễn biến hòa bình từ trên xuống” trong hoàn cảnh áp lực từ ngoài vào và từ dưới lên. Bất ngờ Myanmar vừa rồi càng củng cố niềm tin của tôi. Sự manh động của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông vừa qua là một biến cố ngẫu nhiên (về thời điểm, tuy xét về lâu dài là tất yếu) vô cùng thuận lợi cho hai áp lực nói trên. Đại hội ĐCSTQ sắp tới sẽ có thể là một áp lực có tính đột phá tiếp theo. Nếu nó quyết định dứt khoát một trong hai ngả: hoặc Diều hâu, hoặc Bồ câu trong cả đối nội lẫn đối ngoại, nó cũng sẽ tạo cơ hội rất lớn cho bước chuyển mình của thể chế Việt Nam. Sự sống còn của dân tộc sẽ buộc lãnh đạo đất nước phải chấp nhận dân chủ hóa để có được sự sát cánh của nhân dân mình và sự ủng hộ của Phương Tây khi đối phó với phái Diều hâu lên ngôi ở Phương Bắc. Ngược lại, quyết định dân chủ hóa để tự cứu nguy của anh “láng giềng gần” trước khủng hoảng kinh tế-chính trị nội bộ sẽ được người học trò truyền thống ở Phương Nam này bắt chước tắp lự. Xấu nhất sẽ là kịch bản nước đôi, lùng nhùng như lâu nay ở cả hai nước. Khi ấy một buổi sáng tỉnh dậy ta sẽ phải đau đớn chứng kiến đất nước mình đã trở thành một thuộc quốc từ đêm hôm qua, rất lâu trước khi có thể trông thấy nó trở thành một quốc gia dân chủ. Vì có một thực tế đáng buồn trong lịch sử vẫn đang tiếp tục diễn ra hôm nay: Người Việt Nam luôn sẵn sàng chống lại sự xâm lăng bằng súng đạn (không hiểu tâm lý dân tộc này, người Mỹ đã mắc phải sai lầm chết người khi muốn nhập khẩu tự do, dân chủ vào xứ này qua họng súng của các chú G.I.), nhưng lại hồ hởi nuốt ngon lành những món thuốc độc từ bên ngoài chỉ cần làm dịu tức thời cơn đói trước mắt (như những món anh bạn thâm nho của chúng ta vẫn gieo rắc hàng ngày trong bữa ăn, đồ dùng và… trên tivi của dân ta).
Phạm Thị Hoài: Trước khi ngày đó tới, anh sẽ làm gì trong năm 2012 này?
Hoàng Hưng: Vai trò của trí thức ngày càng thể hiện rõ trong công cuộc vận động dân chủ hóa đất nước. Ngày càng đông những cá nhân có tâm huyết và tầm nhìn đứng lên thức tỉnh quần chúng, kể cả những Đảng viên cộng sản lão thành giác ngộ. Nay đã đến lúc chín muồi cho sự ra đời các tổ chức xã hội dân sự, bước tiến mới tất yếu của công cuộc này. Công cuộc vận động dân chủ khi ấy sẽ có một chất lượng mới, tạo áp lực đi đến chuyển đổi từ triều đình. Tôi nghĩ đây sẽ là trọng trách của lớp người trung niên và trẻ có tiềm lực về nhiều mặt, trong đó có sức khỏe và thời gian. Tôi tự biết mình chỉ là một trong số mấy “anh già văn nghệ” vì ý thức công dân không thể nhắm mắt trước hiện tình khốn quẫn của dân tộc, cực chẳng đã mới phải lên tiếng khơi ra vài việc có tính mở màn, cũng là không hổ thẹn với lương tâm. Chứ chúng tôi thật sự không có năng lực theo đuổi công việc vận động chính trị một cách chuyên nghiệp. Giờ đây, chẳng còn bao sức lực và thời gian, tôi muốn tập trung vào hai việc quen thuộc với mình. Một là tiếp tục giới thiệu văn học thế giới cho bạn đọc Việt Nam như vẫn làm. Việc mới là hỗ trợ những nỗ lực hiện đại hóa giáo dục của một nhóm tình nguyện hết sức quý báu do bạn vong niên Phạm Toàn – Châu Diên tổ chức (nhóm Cánh Buồm). Với việc làm rất cụ thể là soạn ra một bộ sách giáo khoa mới cho cấp Tiểu học, chẳng cần quan tâm Bộ Giáo dục có ngó ngàng gì đến hay không, nhóm này gây bất ngờ trong một xã hội quá quen thói "xin-cho". Một cách tiếp cận mới mẻ, đầy tính xã hội dân sự. Tôi nghĩ đó chính là những đóng góp thiết thực vào công cuộc giải độc và dưỡng sinh cho cơ thể dân tộc Việt Nam về lâu dài, những việc mà người trí thức không thể đợi đến khi có chế độ dân chủ pháp quyền thực sự thì mới làm.
Những ngày cuối năm 2011
© 2012 pro&contra
© 2012 pro&contra
![]() |
Tác giả: Nguyễn Trần Bạt, Nguồn: Cội nguồn cảm hứng |
Nói đến TỰ DO là nói đến các QUYỀN CON NGƯỜI. Đây là những khái niệm RẤT CƠ BẢN và RẤT CHUYÊN NGHIỆP của MỘT XÃ HỘI DÂN SỰ. Đó là kết quả của tiến trình thảo luận về quyền con người, về các giá trị con người ở châu Âu từ thế kỷ XV.
Có nhiều cách tiếp cận các quyền của con người. Trong các học thuyết pháp lý hiện hành ở các nước phát triển, các quyền con người được phân định rõ ràng và được đảm bảo thực thi trên thực tế. Trong khi ở các nước kém phát triển, các quyền con người dường như chưa được phân định và lý giải rành mạch. Rất nhiều khái niệm bị lẫn lộn, thậm chí một số quyền được nhấn mạnh, một số quyền bị coi nhẹ, một số quyền không được đáp ứng hay không được đảm bảo.
Có thể thấy, từ trước đến nay, các khái niệm về quyền được hiểu một cách hết sức kỹ thuật, và do đó nó trở thành đối tượng nghiên cứu trong các ngành hẹp của khoa học xã hội. Ví dụ, luật học tập trung nghiên cứu cấu trúc các quyền, xã hội học nghiên cứu các quyền con người trong mối quan hệ giữa con người và xã hội… Tuy nhiên, trên thực tế, những nghiên cứu như vậy chỉ có thể kiểm nghiệm và đưa vào áp dụng ở các nước phát triển, nơi có truyền thống về dân chủ, bởi vì ở đó những khái niệm chung nhất, khái quát nhất của cấu trúc các quyền được nhận thức một cách phổ biến. Trong khi lịch sử hình thành và phát triển của các quốc gia châu Á cho thấy chưa bao giờ cấu trúc các quyền được nghiên cứu một cách phổ quát ở khu vực này. Nó không trở thành đối tượng nhận thức và không được tận dụng như là công cụ để giám sát những hoạt động vi phạm các quyền con người. Thậm chí, ở các quốc gia phi dân chủ, xu hướng chính trị hoá các vấn đề con người dẫn đến việc nhấn mạnh các yếu tố cộng đồng, nhà nước, tức là nhấn mạnh chủ quyền, sau đó đến quyền công dân, rồi mới đến nhân quyền. Khi nói đến nhân quyền người ta giải thích rằng nó đã được đề cập trong hai khái niệm kia, và hai khái niệm đó phải có trước nhân quyền.
Trong các quan điểm đấu tranh với hiện tượng vi phạm nhân quyền ở các quốc gia phi dân chủ, các nhà luật học đã định nghĩa rõ những quyền nào là quyền tự nhiên của con người và những quyền nào phụ thuộc vào mức độ phát triển. Những quyền tự nhiên của con người có nghĩa là ở tất cả các nơi, không phụ thuộc trình độ phát triển, tất cả mọi người đều có những quyền tương ứng. Còn những quyền phụ thuộc vào trình độ phát triển thì được chi tiết hoá, cụ thể hoá, ví dụ như những quyền về kinh tế hay một số quyền về văn hoá… Mặc dù vậy, trên phạm vi toàn cầu vẫn chưa thực sự có sự phân định rành mạch về các quyền con người.
Theo quan điểm của tôi, liên quan đến con người có 3 cấp độ quyền, như người ta đã thừa nhận, đó là nhân quyền, dân quyền và chủ quyền. Tuy nhiên, chúng ta cần phải nhận thức được một cách rõ ràng trật tự hay vị trí của các quyền này trong cuộc sống của mình.
Thứ nhất là nhân quyền, đó là quyền của con người, quyền ấy có giá trị phổ quát toàn cầu, ở đâu có con người thì ở đấy có nhân quyền. Tại sao cần phải nhấn mạnh ý nghĩa phổ quát của nhân quyền? Vì khi nói tới nhân quyền, nhiều nước thường đưa vào đó nội dung văn hoá, tức là họ cho rằng nhân quyền ở nước này khác nhân quyền ở nước kia vì nhân quyền là một quyền đặc thù có tính chất địa lý hay có tính chất văn hoá. Rõ ràng đưa yếu tố văn hoá vào để giải thích các vấn đề thuộc về con người là một cách để ngụy biện, để che đậy một thực tế là khái niệm quyền con người đã bị chính trị hoá. Tôi phản đối cách giải thích và cách hiểu này. Đã là nhân quyền thì quyền ấy phải được hiểu theo những định nghĩa thống nhất toàn cầu. Khi nói đến nhân quyền là nói đến các quyền cá nhân, quyền tự do của mỗi một con người.
Thực tế, có sự khác nhau giữa trạng thái nhân quyền ở quốc gia này và quốc gia kia, nhưng đó không phải là đặc thù văn hoá mà là kết quả của trình độ phát triển. Các điều kiện để tôn trọng quyền con người rất khác nhau ở các quốc gia có mức độ phát triển khác nhau. Điều đó có nghĩa, những điều kiện chính trị khác nhau, những điều kiện kinh tế khác nhau, những điều kiện phát triển khác nhau sẽ tạo ra sự khác biệt giữa trạng thái nhân quyền ở các quốc gia. Và như thế không có nghĩa là người ta có quyền thừa nhận sự khác nhau về quyền con người. Phải chấm dứt trạng thái cho rằng quyền con người là một khái niệm mang đặc điểm văn hoá.
Nhân quyền là các quyền bẩm sinh, quyền hiển nhiên, đấy là quyền của tạo hoá. Quyền của tạo hoá là quyền phổ biến, nó đúng và nó là đòi hỏi cho bất kỳ vùng địa lý nào, bất kỳ thể chế hay quốc gia nào. Bản Tuyên Ngôn Ðộc lập năm 1776 của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, có lẽ là văn bản đầu tiên công bố khái niệm quyền con người một cách chính thức. Bản tuyên ngôn đã khẳng định quyền con người là vốn có và không thể xâm phạm, nó xuất hiện, tồn tại cùng xã hội loài người, không phải do con người võ đoán hoặc do ý chí áp đặt mà do “tạo hóa” sinh ra. Cần phải lên án và xoá bỏ tất cả mọi âm mưu làm biến dạng các quyền tự nhiên của con người.
Quyền thứ hai là dân quyền hay quyền công dân, các quyền này quy định hành vi của người dân. Nếu không phân biệt nhân quyền và dân quyền thì rõ ràng chúng ta không biết bảo vệ dân quyền. Mỗi một quốc gia là sự kết hợp có chất lượng lịch sử của các mối tương quan giữa con người, giữa các cá thể với nhau. Điều đó có nghĩa, các quốc gia có sau con người và vì thế dân quyền có sau nhân quyền. Hơn nữa, dân quyền phải được định nghĩa dựa vào trạng thái phát triển chính trị của các quốc gia, hay quyền cơ bản của công dân lệ thuộc chủ yếu vào cấu trúc chính trị của quốc gia. Do đó, dân quyền là sản phẩm mang chất lượng quốc gia còn nhân quyền là sản phẩm tự nhiên của con người.
Hiện nay, ở hầu hết các quốc gia lạc hậu có sự không rành mạch giữa nhân quyền và dân quyền, tức là quyền cơ bản của con người với quyền cơ bản của công dân. Trong hiến pháp của một số nước, nhân quyền được quy kết vào quyền công dân: "các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và Luật"… Đó là sự thay thế nhân quyền bằng dân quyền, tức là biến một quyền hiển nhiên của con người thành quyền cho con người. Sự nhập nhằng giữa nhân quyền và dân quyền thường tồn tại ở những nhà nước phi dân chủ, còn ở những nhà nước dân chủ thì sự khác biệt ấy là rõ ràng, ở đó nhân quyền và dân quyền là hoàn toàn khác nhau.
Nhân quyền khi trộn lẫn vào dân quyền thì luôn luôn phải đi qua cái vỏ hình thức của dân quyền. Một nhà nước mà không thực sự là của nhân dân thì nhà nước đó là cấp trên của nhân dân, nhà nước đó xác lập các quyền con người. Khi đó, các quyền đương nhiên, vốn có của con người trở thành các quyền có tính chất ban phát. Nhân quyền phải được luật pháp các nước thừa nhận, tức là nó được thể hiện dưới vỏ quyền công dân, phải nằm trong các bộ luật dưới hình thức các quyền công dân. Thế nhưng trong điều kiện các nhà nước phi dân chủ là nhà nước không được tạo ra bởi nhân dân, không được kiểm soát bởi nhân dân, thì đương nhiên, các quyền con người thông qua dân quyền trở thành quyền được bàn bạc bởi nhà nước. Ở những nơi đó, cả nhà chính trị và người dân không hiểu được giá trị nhân quyền, nên mới có thực tế là bản thân nhân dân cũng tầm thường hóa nhân quyền, cho rằng không cần đến nhân quyền mà chỉ cần dân quyền là đủ. Điều này cũng lý giải tại sao cải cách của những nước đó thất bại, là bởi thông qua cải cách, người ta chỉ tìm cách giải quyết những bài toán nới rộng không gian về dân quyền, tức là nới rộng quan hệ giữa con người và nhà nước mà bỏ qua vấn đề mấu chốt là nhân quyền. Người ta không nhận ra rằng nhân quyền mới là trung tâm của mọi vấn đề.
Quyền thứ ba là chủ quyền. Chủ quyền chính là quyền quốc gia hay quyền sở hữu đất nước, mà người đại diện cho quốc gia là nhà nước. Lâu nay, nhiều quốc gia, đặc biệt là những quốc gia chậm phát triển hay nhấn mạnh vấn đề chủ quyền. Ở những nước này, chủ quyền chỉ được hiểu như là quyền của những người đại diện quốc gia để đối thoại với quốc gia khác mà người ta không biết rằng, chủ quyền chính là quyền của con người làm chủ đất nước, làm chủ quốc gia và tập trung tạo ra chính phủ, tạo ra nhà nước của mình. Đây chính là mấu chốt của mọi vấn đề liên quan đến quyền con người, nói cách khác, chủ quyền là nơi tập hợp tất cả những vấn đề phức tạp về phương diện chính trị của cấu trúc các quyền. Vì thế, nếu không làm rõ khái niệm nhân quyền thì nhân dân không hiểu đúng về chủ quyền, càng không biết đòi hỏi cơ hội để nói về vấn đề chủ quyền.
Trên thực tế, người định nghĩa chủ quyền chính là các chính phủ. Đất đai là sở hữu toàn dân là một cách giải thích chủ quyền, biên giới là khái niệm mang tính chất chủ quyền. Sự tranh chấp về chủ quyền chủ yếu thông qua sự đàm phán của các quốc gia, của các chính phủ. Các chính phủ thường cường điệu mặt đối ngoại của chủ quyền mà quên mất nội dung bên trong, nội dung đối nội của nó. Nội dung đối nội của chủ quyền là quyền sở hữu đất nước, quyền làm chủ đất nước của mỗi một người dân. Và chỉ khi đất nước có ngoại xâm, hay là chỉ trong những trạng thái có chiến tranh xâm lược thì chủ quyền mới được giải thích như quyền đối ngoại. Còn trong điều kiện hoà bình, trong điều kiện các cộng đồng dân tộc thích hoà bình và không có chiến tranh, nội dung cơ bản của chủ quyền là các quyền đối nội, tức là quyền đối với nhau của các thành viên cấu trúc ra xã hội và cùng chia nhau quyền làm chủ quốc gia mình.
Tuy nhiên, chủ quyền là quyền chính trị, nó được cấu trúc, được hình thành và phát triển bởi chất lượng của hệ thống chính trị. Lịch sử đã chứng minh rằng dân chủ là thể chế hợp lý nhất mà ở đó người dân có toàn quyền đối với đất nước của mình, chủ quyền là công cụ để bảo vệ nhân quyền và dân quyền. Vấn đề cần phải nghiên cứu là, ai là người đại diện cho chủ quyền trong các phát biểu quốc tế, trong các thảo luận quốc tế? Cơ sở pháp lý nào của các chính phủ cho phép họ có quyền nói về chủ quyền? Như vậy, các chính phủ phải là người đại diện chân chính và hợp pháp cho nguyện vọng của người dân và chỉ những người được lựa chọn bởi người dân mới có đầy đủ quyền của người đại diện. Quyền làm chủ của người dân trong chủ quyền là tạo ra chính phủ theo ý muốn và các chính phủ bắt buộc phải đối thoại quốc tế dựa vào đòi hỏi của người dân thông qua việc tạo ra các sinh hoạt quốc hội.
Một cách tổng quát, có thể kết luận, chủ quyền là một khái niệm gồm hai yếu tố, đó là quyền tạo ra chính phủ của người dân, và quyền làm chủ của người dân, tức là quyền tạo ra các trạng thái chính sách, các trạng thái pháp luật. Nói cách khác, chủ quyền của người dân được xác lập tập trung ở các quyền dân chủ đối với hệ thống chính trị. Đây là một kết luận có tính chất lý luận căn bản về tổ chức nhà nước trong một nền chính trị dân chủ.
Chúng ta phải nhận biết các cấp độ quyền con người để thấy được cần phải tôn trọng và bảo vệ con người với đầy đủ các quyền của họ. Tôn trọng và bảo vệ các quyền con người là dấu hiệu của xã hội có những con người tự do hay xã hội dân chủ. Emmanuel Kant (1724 - 1804), người đã từng có đóng góp lớn vào việc nghiên cứu sự vận hành của trái đất, sự tồn tại của Ðại Thiên hà vũ trụ nằm ngoài Thiên hà, cũng chính là nhà bác học rất thích nhắc đi nhắc lại câu ngạn ngữ: "Hãy thực hiện công lý đi, cho dù thế giới có tiêu vong". Có thể hiểu câu ngạn ngữ này là, dù thế giới có tiêu vong đi chăng nữa thì chúng ta vẫn phải tôn trọng công lý, vì sự tôn trọng công lý là dấu hiệu thể hiện chúng ta là con người, mà tôn trọng công lý chính là tôn trọng con người, tôn trọng các quyền con người. Qua câu nói đó, chúng ta thấy được tầm vóc suy nghĩ, sự lạnh lùng, sự tỉnh táo, sự thú vị và bản lĩnh của một nhà hiền triết vĩ đại. Những con người như thế giúp chúng ta nhận thức về bản thân, về nhu cầu phải khám phá, phải đòi hỏi để từ đó trả lời câu hỏi chúng ta là ai, nếu chúng ta là con người thì phải sống đúng nghĩa là người với đầy đủ các quyền con người.
Nguyên lý về quyền con người là nguyên lý mà người ta không thể nhân danh bất kỳ lý do nào để phủ nhận nó được, nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức cạnh tranh của một dân tộc trong quá trình ganh đua toàn cầu. Chân lý tất yếu của quyền con người là sự tự giác của các không gian. I. Gandhi trước khi làm thủ tướng Ấn Độ viết một luận văn tiến sỹ là Không gian vật chất và tinh thần cần thiết cho một cá nhân để phát triển. Quyền là không gian sáng tạo của con người, không gian tuyệt đối phải được đảm bảo nếu con người muốn phát triển, hay muốn trở thành nhà lãnh đạo chân chính. Do đó, nhiệm vụ của nhà chính trị là biến trí lực của người dân thành lực lượng của đời sống xã hội. Nhà chính trị, nhà lãnh đạo có không gian quyền lực riêng, đó là không gian phối hợp các năng lực của đời sống xã hội mà nhà chính trị quản lý.
![]() |
Tác giả: Nguyễn Trần Bạt, Nguồn: Cội nguồn cảm hứng |
Trong suốt cuộc đời con người cũng như trong suốt lịch sử nhân loại có hai vấn đề lớn cần quan tâm. Thứ nhất là vấn đề tồn tại, thứ hai là vấn đề phát triển. Phát triển là một trong những mục tiêu cơ bản của con người. Tuy nhiên, không phải lúc nào con người cũng ý thức được điều đó.
Có một thời gian rất dài, con người phân vân giữa phát triển và không phát triển, con người cố gắng giải thích quyền có sự khác nhau trong quan niệm về phát triển, thậm chí, con người bàn đến khái niệm phát triển mà không bàn đến sự bắt buộc phải phát triển. Chúng ta vẫn hay nói nhiều về sự phát triển mà chưa hiểu hết bản chất của nó. Nếu không hiểu bản chất của sự phát triển, chúng ta không thể hiểu được giá trị của tự do và công nghệ sử dụng tự do. Tại sao chúng ta lại cần tự do? Và tự do có phải là một thứ xa xỉ không? Đấy là một vấn đề cần phải được thảo luận rất nghiêm túc. Nghiên cứu mối tương quan giữa tự do với con người, con người và sự phát triển, tự do và sự phát triển chính là nghiên cứu sự phát triển với định hướng con người là trung tâm. Tự do sinh ra con người và con người cần tự do để phát triển. Phát triển là một tất yếu mà con người không thể trốn tránh.
I. Con người - trung tâm của sự phát triển
Trước hết, cần phải phân biệt giữa phát triển và tăng trưởng kinh tế. Phát triển không chỉ là tăng trưởng kinh tế. Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế là yếu tố biểu thị một cách tập trung nhất năng lực thỏa mãn nhu cầu của con người, nhưng mình nó chưa đủ để gọi là phát triển. Tăng trưởng là biểu hiện hình thức hay biểu hiện hẹp của phát triển. Nói cách khác, tăng trưởng chỉ là sự gia tăng về vật chất, còn phát triển là nâng cao và hoàn thiện đời sống cả về vật chất lẫn tinh thần của con người. Chúng ta biết rằng, giàu có không phải là mục tiêu của sự phát triển, mà khát vọng lớn nhất của con người bao giờ cũng là một cuộc sống hạnh phúc. Ở đâu con người cảm thấy hạnh phúc thì ở đấy có sự phát triển. Sự phát triển chính là trạng thái con người có hạnh phúc, có năng lực, đặc biệt là năng lực nhận thức tốt hơn, có điều kiện hưởng thụ và tư duy một cách tự do, sáng tạo hơn. Vì thế, phát triển là quá trình tạo ra những năng lực để con người tự nâng cao đời sống của mình. Suy cho cùng, phát triển là sự tăng trưởng những giá trị của con người. Như vậy, con người là trung tâm của sự phát triển, hay nói cách khác, con người là động lực tạo nên sự phát triển, và phát triển phải vì hạnh phúc của con người.
Chỉ số quan trọng nhất để đánh giá mọi sự phát triển là chỉ số con người. Vì suy cho cùng, giá trị con người là kết quả cuối cùng của sự phát triển. Mọi sự phát triển có ý nghĩa gì nếu nó không phải là của mỗi con người và vì mỗi con người? Phải hiểu rằng, sự phát triển không chỉ được thể hiện bởi các nhà nước bình đẳng trên trường quốc tế về sự giàu có. Cũng có những giai đoạn như thế nhưng đó là giai đoạn đối đầu và nó đã qua rồi. Một nhà nước mạnh trong quan hệ với các nhà nước khác nhưng người dân không hạnh phúc thì sức mạnh đó cũng không có ý nghĩa. Mỗi con người phải được hưởng hạnh phúc, phải được hưởng kết quả của sự phát triển và thước đo đánh giá chỉ số này thể hiện trước tiên ở thái độ tự tin của mỗi cá thể trong cộng đồng đối với các quan hệ mà họ buộc phải đối thoại trong cuộc sống. Nếu không phát triển, nếu không cảm thấy hạnh phúc thì một người khó có thể đủ tự tin để đối thoại với người khác, càng không có đủ năng lực để cạnh tranh. Thời đại bây giờ cần sự phát triển thực chất, tức là con người ở các quốc gia khác nhau có tư thế bình đẳng với nhau. Đó là những con người xác định được tiêu chuẩn phát triển, có năng lực tạo ra sự phát triển và phát triển ở những chặng tiếp theo của cuộc sống.
Cùng với tiến bộ xã hội, khái niệm phát triển có thêm nhiều nội dung mới.
Con người không chỉ nói đến sự phát triển với ý nghĩa thuần tuý mà còn bàn đến sự phát triển bền vững. Phát triển bền vững là thành quả của các nguồn phát triển ổn định. Các nguồn phát triển ổn định được tạo nên bởi chính các giá trị trọn vẹn của con người. Chúng ta biết rằng, mọi sự phát triển luôn luôn có những gợi ý, luôn luôn có yếu tố sáng tạo và thể nghiệm những sáng tạo của con người. Đấy là bản chất của cuộc sống phát triển. Cải cách là một hình thức sáng tạo của con người để duy trì sự ổn định của các nguồn phát triển. Nếu cải cách kinh tế tạo ra được sức mạnh nhìn thấy của sự phát triển thì cải cách chính trị, cải cách văn hoá và nhất là cải cách giáo dục tạo sự phát triển bền vững. Muốn có sự phát triển bền vững, con người phải xác lập được sự cân bằng của tất cả các thành tố tham gia vào quá trình phát triển. Trong khi đi tìm trạng thái mới, để tránh được cái sai thì con người phải bình tĩnh, bởi nếu nóng vội, con người rất dễ lăn xuống dốc theo quán tính mà không tìm thấy giới hạn để dừng. Toàn bộ tiến trình phát triển ổn định chính là xác lập trạng thái không lăn theo quán tính của đời sống phát triển. Nhưng con người sẽ rất vất vả nếu không lợi dụng được quán tính của sự dịch chuyển. Bởi thế, con người cần đến khoa học và chính trị để tận dụng quán tính mà không lệ thuộc vào quán tính. Con người cần phải có trạng thái bình tĩnh trong nhận thức về sự phát triển. Trạng thái bình tĩnh đó chính là trạng thái tự cân bằng của đời sống.
Vậy, phát triển con người là gì?
Như tôi đã nói, tự do gắn liền với con người, tự do sinh ra con người, cho nên muốn phát triển, con người phải tự do. Chỉ có tự do thì con người mới phát triển, chỉ có phát triển thì mới đảm bảo những giá trị của con người. Mức độ tự do là yếu tố ban đầu tạo nên chỉ số con người. Tôi cho rằng, năng lực để nhận ra cơ hội, năng lực để khai thác cơ hội và năng lực để tổ chức cuộc sống là những năng lực quan trọng nhất của con người. Những năng lực đó chỉ xuất hiện khi con người tự do và chịu thương chịu khó để nhận thức. Ngay cả khi đã có tự do, không có cách nào để trở thành một con người hoàn chỉnh, một con người phát triển nếu con người không lao động thật. Điều đó có nghĩa, để phát triển thì trước hết con người phải lao động, đầu tiên là lao động trí tuệ. Không có năng lực lao động trí tuệ thì con người không thể nhận biết được các cơ hội. Chính lao động trí tuệ cần mẫn và liên tục giúp con người hoàn thiện trí tuệ của mình, con người trở nên thông thái, cao thượng và tự tìm thấy tương lai của mình. Tự do và lao động tạo ra năng lực và năng lực tạo ra mọi sự phát triển. Sự phát triển có thể khác nhau ở từng con người nhưng luôn có sự phát triển cho tất cả những con người hội tụ đủ cả hai điều kiện đó. Khi mỗi người tạo ra sự phát triển của chính mình thì xã hội sẽ tự nhiên được hưởng thành quả của sự phát triển và chắc chắn đó là sự phát triển bền vững.
Hiện nay, người ta bắt đầu thấy rằng chỉ số IQ không còn quan trọng trong sự phát triển, sự thành đạt của một cá nhân mà thay vào đó, chỉ số cảm hứng hay chỉ số EQ ngày càng trở nên quan trọng. Con người có thể thiếu kinh nghiệm nhưng nếu không có nhiệt tình ở bên trong để đi tìm hạnh phúc thì không có sự phát triển. Nếu một người không phong phú, không đa dạng từ trong đời sống tinh thần thì người đó khó có thể tiếp thu các giá trị thiêng liêng, cao quý, thiết thực, cái gì người đó có trong tay cũng chỉ là kết quả của sự dịch chuyển hình thức, chỉ là cầm hộ sự phát triển của người khác. Sự phong phú của đời sống tinh thần con người, sự cao quý của tâm hồn con người chính là cái kho tiềm ẩn các giải pháp để phát triển. Nếu con người không phong phú thì con người không có các kinh nghiệm tình huống, con người không ứng xử đủ nhanh để tạo ra các giải pháp phát triển và do đó, con người luôn lỡ nhịp trong sự phát triển.
Phải khẳng định rằng con người, đặc biệt là con người của thời đại ngày nay không có cách nào trốn tránh sự phát triển được, không thể nói đến sự phát triển mà không bắt buộc mình phải phát triển. Phát triển là con đường sống của tất cả các dân tộc, kể cả các dân tộc đã phát triển. Phát triển là một tất yếu của con người, là nội dung cơ bản của con người. Bởi vì không phát triển thì con người không tồn tại. Phát triển tác động đến xã hội, tác động đến cuộc sống của mỗi người, cả đời sống vật chất và tinh thần của mỗi người. Nếu xem sự phát triển là hoàn thiện đời sống hạnh phúc của con người thì không thể không nói đến dân chủ. Dân chủ là biện pháp duy nhất đúng đắn tạo ra sự phát triển và bảo đảm hạnh phúc của con người, vì nó tạo ra công nghệ kiểm soát tính hợp lý của sự phát triển. Dân chủ đảm bảo mọi giá trị cuối cùng của sự phát triển được phân phối một cách công bằng đến từng con người, điều đó có nghĩa, phát triển không chỉ là vấn đề của từng quốc gia mà quan trọng hơn, đó là vấn đề của từng con người. Hơn bao giờ hết, trong thời đại ngày nay, nếu không xây dựng chế độ dân chủ để tự do trở thành cảm hứng cơ bản khích lệ con người tham gia một cách hiệu quả vào quá trình cạnh tranh toàn cầu thì không thể có sự phát triển được.
II. Tự do và sự phát triển
Tự do và phát triển là hai phạm trù có quan hệ hệ quả và biện chứng sâu sắc. Tự do là điều kiện ban đầu của sự phát triển vì tự do giải phóng năng lực con người và tạo ra sức cạnh tranh, mà cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển. Ngược lại, phát triển góp phần nới rộng các biên của khái niệm tự do hay mở rộng không gian tự do.
Sự phát triển của mỗi con người phản ánh sức cạnh tranh của người đó. Giá trị con người tạo nên sức cạnh tranh và sức cạnh tranh chính là nhân tố quan trọng nhất của con người trong thời đại mới. Ở đâu con người có sức cạnh tranh tốt, ở đấy có sự phát triển. Cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển vì đó là động lực cơ bản của mọi sự sáng tạo. Bản chất của cuộc sống là tính đa dạng tự nhiên của các yếu tố, chúng luôn luôn có xu hướng cạnh tranh với nhau và cạnh tranh trong sự bình đẳng. Quá trình cạnh tranh tự do và bình đẳng của các yếu tố tạo ra sự phát triển. Do vậy, cần phải đảm bảo một môi trường mà ở đó mỗi một đối tượng tham gia đều có những quyền tự do và bình đẳng trong quá trình cạnh tranh. Tự do tạo ra giá trị con người mà con người chỉ hoàn toàn tự do khi có tự do chính trị. Đảm bảo tự do chính trị chính là nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi một con người, vì tự do chính trị tạo ra sự phong phú của các khuynh hướng trong xã hội và tăng cường năng lực cạnh tranh của cả xã hội. Cho nên, để có sức cạnh tranh, các quốc gia phải tìm mọi cách huy động hay giải phóng nhân tố con người một cách tối đa. Như đã phân tích, để tạo ra sự phát triển, con người không chỉ cần năng lực mà còn cần cả cảm hứng. Tự do là cảm hứng của sự phát triển. Một dân tộc không có cảm hứng, một con người không có cảm hứng và không còn khát vọng đi tìm hạnh phúc thì không thể phát triển được. Chỉ có tự do mới tạo ra cảm hứng cho con người. Đến lượt mình, cảm hứng khích lệ sáng tạo, cạnh tranh và tạo ra sự phát triển.
Tự do bao giờ cũng là điểm xuất phát của sự phát triển. Mặc dù Amartya Sen, một trong những nhà kinh tế học đoạt giải Nobel, rất có lý khi cho rằng "Phát triển như là tự do", nhưng theo tôi, nói cho đến cùng thì không có sự phát triển nào đi trước tự do. Mọi sự phát triển chỉ có thể có được khi có tự do và đi cùng với tự do. Sự phát triển có thể di chuyển từ vùng này sang vùng khác, nhưng nếu như ở các vùng có sự phát triển đi qua mà con người không được hưởng thụ thì điều đó chứng tỏ ở đấy con người chưa tự do, ở đấy con người chỉ cầm hộ sự phát triển của người khác. Tự do không chỉ là linh hồn của sự phát triển mà chính là sự phát triển. Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng ngày nay tự do không còn là quyền chính trị mà là quyền phát triển. Tự do không chỉ là nội dung của sự phát triển mà hơn thế là động lực cơ bản, là yếu tố tạo ra sự phát triển. Trạng thái kém phát triển trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, chính trị thể hiện sự kém phát triển của các quyền tự do hoặc không có tự do. Phát triển vừa là hệ quả của tự do, đồng thời cũng là tiền đề để con người có tự do nhiều hơn.
Tự do là khái niệm động, khái niệm biến thiên. Tự do là linh hồn của mọi sự phát triển và bản thân tự do cũng là một khái niệm có chất lượng phát triển. Điều ấy có nghĩa, không gian tự do luôn có xu hướng nở ra. Không gian ấy không đo được bằng hệ quy chiếu của hình học Euclid. Không gian của tự do là không gian tự nở, tất cả các trục của nó đều cong. Không gian tự do không có tận cùng. Con người yêu tự do mới hiểu tự do có ý nghĩa sống còn với con người như thế nào. Tự do giống như bầu không khí mà con người cần từng giây từng phút cho sự sống của mình. Ai cũng có không gian tự do của mình cũng như có quyền khai thác và sử dụng nó để phát triển. Một người có tự do hơn người khác, có nhiều cơ hội hơn người khác nếu biết khai thác triệt để không gian tự do của mình. Chúng ta đã chỉ ra ở phần trước là không gian tự do của mỗi cá thể được cấu tạo bởi không gian tự do bên trong là đời sống tinh thần của cá thể đó và không gian tự do khách quan bên ngoài là các điều kiện vĩ mô của cộng đồng, của xã hội. Con người càng tự do với thể chế bao nhiêu thì con người càng tôn trọng tự do bên trong của mình bấy nhiêu. Ngược lại, càng ý thức được tự do bên trong của mình bao nhiêu thì con người càng đòi hỏi tự do với thể chế bấy nhiêu. Phát triển chính là sự hoà hợp giữa hai không gian tự do đó. Ở nơi nào không gian tự do khách quan và không gian tinh thần đồng nhất với nhau thì ở đó có những tiền đề cơ bản cho sự phát triển con người.
Quyền con người của ngày hôm qua, của thế kỷ XX khác với của thế kỷ XXI. Gần đây, các nhà chính trị châu Âu thất bại khi trưng cầu phê chuẩn Hiến pháp châu Âu, lý do là họ đã không rèn luyện cho người dân châu Âu thấy rằng việc nới rộng không gian châu Âu trở thành một thể thống nhất là nhu cầu của sự phát triển. Người dân vừa không được thuyết phục để chấp nhận thực tế phát triển, vừa không được khích lệ sự tín nhiệm đối với nhà nước trong việc đưa ra những tiêu chuẩn mới của khái niệm tự do, cho nên các nhà chính trị đã thất bại. Người dân Châu Âu đã có tự do và có nhiều đến mức người ta cảm thấy nhờn với tự do. Nhưng thực ra, con người luôn hiểu tự do một cách có giới hạn và con người phải không ngừng thay đổi, nâng cao sự hiểu biết của mình. Không ai khác mà chính các nhà chính trị phải có trách nhiệm tạo ra sự thức tỉnh của con người về giá trị mới của tự do. Nâng cao hiểu biết về khái niệm tự do sẽ thúc đẩy con người phát triển hay nói cách khác, phát triển là nhận ra những giới hạn mới của tự do. Mỗi một thời đại có những giới hạn tự do riêng. Giới hạn tự do là sự giới hạn của lịch sử đối với tự do, và là một trong những biểu hiện cho sự phát triển của thời đại. Phát triển năng lực nhận thức, đặc biệt là năng lực nhận thức về tự do là đòi hỏi thiết yếu của thời đại đối với mỗi người, mỗi dân tộc, thậm chí, nó phải được coi là năng lực quan trọng nhất của con người. Tự do là điểm khởi đầu, là hạt nhân của mọi quá trình nhận thức và phát triển. Kinh nghiệm về tự do tiệm tiến với năng lực nhận thức của mỗi con người. Cùng với sự phát triển các năng lực, con người sẽ nhận ra những giới hạn mới, những chân trời mới của tự do. Tự do không chỉ dừng lại ở không gian bên trong của các giới hạn tự do, mà tự do của con người hiện đại, tự do chủ động, còn là sự phá vỡ đường biên của các giới hạn. Phát triển chính là sử dụng các quyền tự do để phá vỡ các giới hạn của tự do.
Chúng ta phải nhớ rằng tự do không chỉ là điều kiện của sự phát triển mà tự do còn là điều kiện của sự sống. Tự do là điều kiện cân bằng của sự sống và nếu không cân bằng thì con người không có trạng thái ban đầu của sự phát triển. Không thể nào phát triển ở bên ngoài sự cân bằng được, bởi vì bản chất của sự phát triển là sự dịch chuyển để phá vỡ giới hạn cân bằng trước đó và tìm kiếm một giới hạn cân bằng cao hơn. Một trong những sự cân bằng quan trọng là sự cân bằng giữa những con người trong cộng đồng với nhau. Nếu không có tự do thì không có sự cân bằng, bởi vì con người tương tác với nhau mới tạo ra cân bằng, cân bằng tạo ra ổn định, cân bằng chính là một trạng thái biểu kiến của sự ổn định. Nếu không ổn định thì con người không thể nhận thức được sự phát triển, nhận thức được nhu cầu cần phải dịch chuyển đến trạng thái nào. Rất nhiều người lầm tưởng tự do là một thứ xa xỉ, là món ăn của người giàu có. Nhưng thực ra, con người nghèo khổ càng cần đến tự do, vì như đã nói, tự do sinh ra những giá trị con người, mà giá trị con người làm nên sự phát triển. Chúng ta phấn đấu vì sự giàu có, vì hạnh phúc của mình nhưng trước đó, chúng ta phải phấn đấu để có những giá trị con người.
Chúng ta phải xây dựng những giá trị bền vững vì muốn có sự phát triển bền vững, con người phải bền vững. Muốn con người bền vững thì không gian chính trị phải bền vững và đó chính là không gian mà người dân làm chủ, là không giam mà các quyền tự do của con người được đảm bảo. Nếu không có tự do thì không có tiền đề, không có không gian ban đầu, không có sự sạch sẽ tâm hồn để con người tiếp nhận tất cả các khả năng tìm kiếm lối thoát phát triển. Mọi sự phát triển phải bắt đầu từ tự do. Mối quan hệ biện chứng giữa sự phát triển và các quyền tự do chính trị là ở chỗ, nó tạo ra các không gian chính trị, xã hội để con người phát triển một cách bền vững.
III. Những chặng đường phát triển
Phát triển vừa là một quá trình, vừa là một trạng thái. Phát triển là trạng thái khi con người xem xét nó ở những thời điểm nhất định, còn tự nó là một quá trình. Phát triển luôn luôn là một quá trình liên tục bao gồm những chặng khác nhau với các nội dung khác nhau. Tôi cho rằng có hai chặng đường phát triển mà bất kỳ ai, bất kỳ dân tộc nào cũng cần phải ý thức được. Chặng đầu tiên là chặng đi từ tiền con người trở thành con người và chặng thứ hai là phát triển con người. Nghiên cứu sự phát triển qua hai chặng đó là nghiên cứu con người với những năng lực mở rộng phù hợp với đòi hỏi của thời đại.
Như tôi đã nói, con người chính là mục tiêu của sự phát triển. Vì thế, ở chặng thứ nhất, phải làm thế nào để mỗi người đạt được các tiêu chuẩn con người. Đấy là vấn đề lớn của mọi thời đại. Là con người theo đúng nghĩa rất quan trọng vì phải là con người mới có tâm lý con người, mới có nhân cách. Nhân cách con người chỉ hình thành sau khi con người có tự do, tự do như cái vốn ban đầu để tiền con người trở thành con người, nếu con người chưa biết tự do, chưa được hưởng hạnh phúc mà tự do đem lại thì không có kinh nghiệm đi tìm và cũng không biết cái mình cần tìm là tự do. Hiện nay, hơn một nửa nhân loại vẫn chưa có cuộc sống của con người theo đúng nghĩa. Đó là những con người nghèo khổ, khu trú, lạc hậu và chậm phát triển, bản thân họ chưa được giải phóng. Do vậy, chặng thứ nhất của quá trình phát triển là phải trả lại cho con người những điều kiện phát triển, mà điều kiện ban đầu, điều kiện tiên quyết, điều kiện sống còn của quá trình này chính là tự do.
Sang đến chặng thứ hai, sự phát triển không còn đơn thuần là giải phóng con người, đem lại tự do cho con người mà là phát triển con người. Trong việc phát triển con người thì phát triển năng lực con người là quan trọng nhất. Các năng lực của con người không còn phù hợp với đòi hỏi của thời đại là năng lực chậm phát triển. Năng lực ấy không bán được, không đổi được, không tạo ra được thành tựu. Rất nhiều người không phù hợp và luôn luôn lạc hậu so với thời đại mà họ tồn tại. Chính sự lạc hậu so với những điều kiện của thời đại mà con người tồn tại tạo ra nỗi bất hạnh chủ yếu của con người. Do vậy, phát triển con người là làm cho con người có những năng lực phù hợp với đòi hỏi của thời đại. Phát triển năng lực con người là một công việc bao gồm nhiều bước.
Thứ nhất, cần phải tạo ra một xã hội tự do. Chỉ có xã hội tự do mới tạo ra cơ hội va đập (tôi chưa nói đến cơ hội có công ăn việc làm, cơ hội thành công), sự va đập làm cho mỗi một cá thể thức tỉnh về sự không tương thích của các khả năng của mình. Nếu không có những cơ hội va đập, con người sẽ thiếu năng lực để nhận biết, để đánh giá, để so sánh hay nói cách khác, con người thiếu kinh nghiệm hành động. Sự thiếu tự do của con người tạo ra sự thiếu hụt các năng lực phù hợp với đòi hỏi của thời đại và làm cho con người không phát hiện ra sự chậm phát triển của năng lực của mình.
Thứ hai, cần phải có một thể chế dân chủ. Cũng có những con người tự đào tạo mình, tự đầu tư cho mình nhưng ở một thể chế không dân chủ thì trạng thái tự do ấy chỉ là trạng thái nhất thời, không ổn định. Sự không ổn định ấy tạo ra sự lệch pha nào đó trong nhận thức, trong việc cấu tạo kinh nghiệm của con người. Cho nên người ta cần dân chủ để đảm bảo cho tự do ổn định. Tất nhiên, khi đã có tự do, dân chủ thì không phải đương nhiên chúng ta sẽ có hạnh phúc, vì tự do, dân chủ chỉ tạo ra cơ hội chứ không tạo ra thành tựu. Thành tựu là sự kết hợp giữa cơ hội và sự đúng đắn của con người.
Trong các chặng đường phát triển ấy, như ở trên đã nói, bình tĩnh là điều kiện cần và đủ để con người lợi dụng được tất cả các yếu tố, kể cả yếu tố đột phá. Người ta luôn luôn cần các yếu tố đột phá. Yếu tố đột phá đôi lúc là những yếu tố xuất hiện một cách ngẫu nhiên, từ bên ngoài, một cách khách quan đối với các tiến trình. Nhưng đôi lúc nó xuất hiện ngay trong lực lượng, trong các chủ thể của tiến trình. Đối với một con chim, yếu tố chủ thể của sự bay của nó là đôi cánh, nhưng yếu tố khách thể, yếu tố bên ngoài của sự bay của nó là gió. Thông thường, nó tận dụng gió để đỡ mỏi cánh, nhưng đến chỗ lặng gió thì nó phải tạo ra những sự đột phá mang chất lượng chủ quan từ trong đôi cánh của chính mình để đi qua những chặng hay là những chướng ngại vật. Như vậy, trước đó, đôi cánh được chỉ đạo bởi một bộ não thông minh là không lãng phí năng lượng khi có gió, tức là biết tận dụng gió, hay là không bay ngược gió. Con người phải thường xuyên phát hiện ra các yếu tố đột phá. Yếu tố đột phá nằm ở trong chính mình là nội lực, yếu tố đột phá nằm ở ngoài mình là yếu tố khách quan. Cả hai yếu tố ấy đều cùng tồn tại trong một tiến trình phát triển. Con người cần phải phát hiện được những yếu tố như vậy và phối hợp sử dụng chúng theo một công nghệ nào đó để tạo ra hiệu quả lớn nhất.
Trong tiến trình phát triển tự nhiên của con người có cả những cách thức tạo ra bước nhảy. Tuy nhiên, giải pháp ấy chứa trong nó đầy rủi ro, cho nên sự đột phá cần phải được điều chỉnh bởi những lực lượng cực kỳ thông thái và mạnh mẽ. Chúng ta phải biết hồi sinh lại các yếu tố mình đã đốt cháy để tạo ra sự đột phá, chúng ta phải biết dự trữ những năng lượng cho thời điểm sau đột phá để tiến trình phát triển được bình thường. Đột phá là một tác động chủ quan, đột phá chính là cải cách. Các nguyên lý của đột phá chính là nguyên lý của các cuộc cải cách. Vì thế, các cuộc cải cách đều phải được thiết kế một cách cẩn thận như nguyên lý mà tôi đã viết trong quyển "Cải cách và Sự phát triển", trong đó có xác định độ thấm của các chính sách vĩ mô, xác định điểm dừng của những tác động chủ quan đến tiến trình tự nhiên như thế nào là hợp lý, tức là con người có thái độ thận trọng trong tiến trình thực hiện những cú đột phá của đời sống phát triển tự nhiên. Làm cho ngoại lực xuất hiện như những yếu tố đột phá giữa đời sống phát triển là do sự chỉ đạo của năng lực tư duy, đó chính là nội lực. Chính phần cao quý nhất, phần tinh khôn nhất của nội lực hướng dẫn quá trình sử dụng những năng lực bên ngoài để tạo ra sự đột phá. Hơn nữa, tất cả các sự vật phát triển không phải là bằng các yếu tố bên trong mà bằng sự hội nhập với yếu tố bên ngoài. Mở rộng không gian bên trong để chứa đựng các yếu tố thâm nhập từ bên ngoài chính là bí quyết của sự phát triển. Phát triển về số lượng và phát triển về chất lượng, hay là cân đối giữa chất lượng và số lượng trong quá trình phát triển, đó là kết quả của trí tuệ. Trí tuệ bao giờ cũng là nội lực, tức là mỗi chủ thể đều phải có năng lực phân loại những thứ mà mình kết nạp vào trong đời sống của mình để tạo ra sự phát triển của chính mình.
Như vậy, quá trình phát triển của con người tối thiểu phải có hai giai đoạn, giai đoạn phấn đấu để trở thành con người và giai đoạn phấn đấu để trở thành con người phù hợp với đòi hỏi của thời đại.
Chặng đầu tiên và quan trọng hơn cả của cuộc đấu tranh vì con người là đưa tiền con người trở thành con người. Chặng thứ hai là trang bị cho con người những năng lực phát triển theo khuynh hướng mở để con người luôn luôn tương thích hay thỏa mãn đòi hỏi của thời đại. Sự thỏa mãn các đòi hỏi của thời đại chính là giải phóng con người ra khỏi nỗi bất hạnh của mình. Đó vừa là hai công đoạn rất cơ bản trong quá trình đấu tranh để giải phóng mỗi một con người, vừa là hai chặng của tiến trình phát triển chung của cả nhân loại.
Con người đã nhận ra sự cần thiết phải tiến hành chặng đầu tiên là giải phóng mình khỏi trạng thái tiền con người nhưng chưa thành công trên phạm vi toàn cầu. Con người đã từng nhận được tự do nhưng đó là những biến dạng của tự do, là tự do hạn chế, tự do vất vả và tự do sai lạc. Tự do hạn chế có nghĩa là cái tất yếu chỉ được nhận thức rất giới hạn chứ con người chưa thực sự sở hữu một không gian tự do bên trong. Tự do vất vả là sự thiếu tự do trong trạng thái không bình đẳng giữa con người với con người. Còn tự do sai lạc là thứ tự do mà con người tưởng rằng mình có nhưng thực ra, con người không thực sự tự do.
Có thể nói, ba lần thất bại của con người khi đi tìm tự do đánh dấu sự khép lại chặng đường đầu tiên trong tiến trình phát triển. Mở đầu cho chặng đường thứ hai chính là toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá là xu thế chung lớn nhất từ trước tới nay, nó mở ra cơ hội khổng lồ cho con người tìm lại tự do và biến khát vọng phát triển thành sự thực. Con người trong thời đại toàn cầu hoá phải là con người phát triển, hơn thế phải phát triển toàn diện vì đó là đòi hỏi của thế giới hiện đại, của kỷ nguyên phát triển khoa học công nghệ, của sự hợp tác và cùng phát triển.
Toàn cầu hoá là cơ hội để con người so sánh với nhau và thấy được nỗi bất hạnh của việc không thành người, nỗi bất hạnh của việc con người không thỏa mãn những đòi hỏi của thời đại. Các đòi hỏi của thời đại thể hiện tập trung ở những tiêu chuẩn về tự do và hạnh phúc của con người. Đó chính là nội dung của khái niệm phát triển trong thời đại ngày nay.
(Nguyễn Trần Bạt, Cội Nguồn Cảm Hứng)
Dân Luận - Vài năm gần đây, vấn đề phản biện xã hội đã được nêu lên khá nhiều trong các cuộc thảo chính thức hoặc không chính thức trong giới trí thức Việt Nam. Đa số đều cho rằng hoạt động này là cần thiết và cần được tạo điều kiện để phát triển, tuy nhiên câu hỏi vì sao hoạt động phản biện xã hội tại Việt Nam còn yếu... vẫn chưa được trả lời một cách thấu đáo. Bài viết này là một cố gắng đi tìm câu trả lời cho câu hỏi trên.
1. Phản biện xã hội yếu vì thiếu văn hóa tranh luận
Theo chúng tôi vấn đề mấu chốt của phản biện xã hội không hệ tại ở việc có hay không có những hành lang pháp lý cho vấn đề này, mà vấn đề cơ bản hơn đó là vì trong xã hội chưa hình thành được một nền văn hóa tranh luận, tức là xã hội hiện nay chưa tạo ra được những cá nhân - tức các thành viên cơ bản của xã hội - những nền tảng cần thiết để thực hiện các cuộc tranh luận, cũng như chưa có một cấu trúc xã hội tạo cơ hội cho sự tranh luận và phản biện được diễn ra.
Trường học Việt Nam gần như không trang bị bất cứ kỹ năng tranh luận nào cho người học cả, đồng thời
Trước hết chúng ta hãy cùng nhìn vào thiết chế gia đình. Xét về mặt xã hội học, gia đình là thiết chế quan trọng đầu tiên trong quá trình xã hội hóa (socialization) cá nhân hiểu theo nghĩa xã hội học của khái niệm này. Theo nghĩa xã hội học thì xã hội hóa là quá trình cá nhân được đào luyện để có thể sống và trở thành một thành viên hợp chuẩn trong xã hội, đứa "trẻ sói" là đứa trẻ không thể sống được trong xã hội loài người vì nó không được trải qua quá trình học làm con người để sống trong xã hội loài người. Cũng vì vậy mà văn hóa tranh luận của mỗi cá nhân trước hết cũng phải được đào luyện, được học từ trong bối cảnh gia đình, thế nhưng kiểu giáo dục con cái của đa số gia đình Việt Nam hiện nay lại gần như không trang bị cho cá nhân những phẩm chất cần thiết cho nền văn hóa này. Thật vậy trong bối cảnh gia đình Việt Nam hiện nay, mối quan hệ giữa cha mẹ-con cái là mối quan hệ giữa kẻ "thống trị" (dominant), tức cha mẹ và kẻ "bị trị" (dominé), tức con cái chứ không phải mối quan hệ giữa những chủ thể (actors) có sự độc lập và tự chủ cá nhân. Chính vì là mối quan hệ thống trị - bị trị nên cha mẹ thường chỉ giáo dục cho con cái những phẩm chất của kẻ tiếp nhận mệnh lệnh, kẻ chỉ biết vâng lời và thực hiện chứ hoàn toàn không phải là người có chủ kiến riêng nên họ cũng không bao giờ hé lộ những khả năng cho sự đối thoại hay sự tranh luận của con cái.
Rời gia đình, đứa trẻ gia nhập vào trong môi trường học đường và nơi đây đứa trẻ lại tiếp tục phải sống trong thân phận của kẻ bị trị, và người thống trị ở môi trường này chính là những thầy cô giáo của các em. Thật vậy trong nhiều năm qua, trường học gần như chỉ là nơi truyền thụ kiến thức một chiều mà trong đó thầy cô là những người nắm giữ chân lý và ban phát chân lý trong khi học sinh chỉ là kẻ tiếp nhận thụ động. Trường học Việt Nam gần như không trang bị bất cứ kỹ năng tranh luận nào cho người học cả, đồng thời cũng không mở ra các cơ hội tranh luận cho người học vì sách giáo khoa được xem là "pháp lệnh", mà đã là pháp lệnh thì không còn gì để tranh luận nữa mà chỉ cần học thuộc mà thôi. Mặc dù chúng ta đã nói tới lối giáo dục "lấy người học làm trung tâm" nhưng gần như đó chỉ là lý thuyết còn trên thực tế thì người thầy vẫn là trung tâm nên sự tranh luận giữa thầy và trò gần như là không hiện diện.
Khi gia đình và nhà trường không hề trang bị cho cá nhân những phẩm chất cần thiết để tranh luận nên chỉ có thể tạo ra được những cá nhân chỉ biết tuân lệnh trong quan hệ giữa cá nhân với Nhà nước mà cụ thể là các cơ quan công quyền. Mặc dù chúng ta nói dân làm chủ nhưng thực tế trong mối quan hệ dân-quan hiện nay, người làm chủ là quan chứ không phải là dân, bởi khi đến với các cơ quan công quyền người dân không có quyền "yêu cầu" mà chỉ được quyền "xin" mà thôi. Xin như thế nào cũng phải theo đúng khuôn mẫu do người cho (quan) qui định và quan cho bao nhiêu thì hưởng bấy nhiêu chứ hoàn toàn không được tranh luận tại sao với quan.
Như vậy có thể thấy là vì một thời gian dài chúng ta không hề đào tạo cho các cá nhân trong xã hội những phẩm chất để tranh luận, những cơ hội để tranh luận thì làm sao hình thành và phát triển được sự phản biện xã hội. Tuy nhiên nếu chúng ta tạo ra được những cá nhân biết tranh luận thì điều kiện thứ hai để phản biện xã hội có thể xảy ra đó là phải có mô hình xã hội phù hợp.
2. Phản biện xã hội và mô hình xã hội
Để phản biện xã hội có thể xảy ra thì phải có mô hình xã hội phù hợp, tức là mô hình xã hội mà ở đó quyền lực xã hội được phân tán cho nhiều thực thể khác biệt nhau chứ không chỉ tập trung duy nhất vào trong tay một thực thể nào. Trong mô hình xã hội có quyền lực phân tán, sẽ có nhiều thực thể cùng nắm quyền lực vừa độc lập nhưng cũng vừa chế định lẫn nhau để không một thực thể nào có thể tự mình quyết định mọi chuyện trong xã hội. Đồng thời các thực thể này đều phải chịu sự chi phối của thiết chế cao nhất đó là thiết chế pháp luật. Như vậy mô hình xã hội với quyền lực phân tán chỉ có thể có trong một Nhà nước pháp quyền thực sự, và vì vậy, chỉ trong Nhà nước pháp quyền thì sự phản biện mới có thể diễn ra. Ở đây cũng cần lưu ý là với mô hình Nhà nước pháp quyền "danh nghĩa" thì sẽ không thể có phản biện xã hội bởi trong mô hình Nhà nước pháp quyền danh nghĩa, quyền lực tối thượng, xét cho cùng, cũng chỉ tập trung trong tay một thực thể "ưu tuyển" (elite) nào đó mà thôi và do đó, sự phản biện xã hội nếu có diễn ra thì cũng hết sức hạn chế bởi điều này phụ thuộc vào mức độ "cởi mở" của thực thể ưu tuyển trong xã hội.
Như vậy để văn hóa tranh luận và sự phản biện xã hội thì bên cạnh những phẩm chất cần thiết của cá nhân thì còn phải có mô hình tổ chức xã hội phù hợp để cho tranh luận và phản biện được diễn ra nữa. Và cái mô hình xã hội đó đã từng được nhà chính trị học, tư tưởng gia người Pháp là Charles de Montesqieu phát họa.
3. Phản biện xã hội và xã hội dân sự
Có thể nói ngay rằng tại nước ta hiện nay chưa có xã hội dân sự đúng nghĩa của từ này và đây là nguyên nhân thứ ba làm cho văn hóa tranh luận hay sự phản biện xã hội không được hình thành. Theo cách hiểu được khá nhiều người đồng thuận thì xã hội dân sự là một không gian độc lập tồn tại bên cạnh Nhà nước và thị trường và vì vậy muốn có được nền văn hóa tranh luận hay sự tranh luận thì xã hội dân sự cần phải có sự độc lập của nó. Ở nước ta hiện nay có rất nhiều đoàn thể, hiệp hội mà xét về tính chất thì thuộc xã hội dân sự nhưng thực tế thì lại cũng thuộc về Nhà nước và tùy phụ vào Nhà nước, tức chúng ta chưa có một không gian xã hội dân sự đúng nghĩa. Nói như vậy là bởi gần như mọi tổ chức hiệp hội, đoàn thể hiện nay đều phải có một cơ quan chủ quản thuộc Nhà nước quản lý và bổ nhiệm nhân sự và vì vậy, những đoàn thể hay hiệp hội ấy thực chất là những "cánh tay nối dài" của Nhà nước chứ không phải thuộc xã hội dân sự. Khi không có xã hội dân sự đúng nghĩa thì thật khó mà có tranh luận hay phản biện bởi thực chất của phản biện xã là sự đối thoại giữa các thành phần có sự độc lập của riêng mình chứ không thể là sự đối thoại giữa những thành phần "cùng ruột" với nhau.
Như vậy có thể thấy vấn đề của phản biện xã hội không chỉ nằm ở hành lang pháp lý (cho phản biện hay không) hay ở vấn đề kỹ thuật (có lắng nghe hay không) mà nằm ở cấu trúc của xã hội và nền giáo dục xã hội có thúc đẩy cho sự phản biện, văn hóa tranh luận hay không mà thôi.
1. Phản biện xã hội yếu vì thiếu văn hóa tranh luận
Theo chúng tôi vấn đề mấu chốt của phản biện xã hội không hệ tại ở việc có hay không có những hành lang pháp lý cho vấn đề này, mà vấn đề cơ bản hơn đó là vì trong xã hội chưa hình thành được một nền văn hóa tranh luận, tức là xã hội hiện nay chưa tạo ra được những cá nhân - tức các thành viên cơ bản của xã hội - những nền tảng cần thiết để thực hiện các cuộc tranh luận, cũng như chưa có một cấu trúc xã hội tạo cơ hội cho sự tranh luận và phản biện được diễn ra.
Trường học Việt Nam gần như không trang bị bất cứ kỹ năng tranh luận nào cho người học cả, đồng thời
Trước hết chúng ta hãy cùng nhìn vào thiết chế gia đình. Xét về mặt xã hội học, gia đình là thiết chế quan trọng đầu tiên trong quá trình xã hội hóa (socialization) cá nhân hiểu theo nghĩa xã hội học của khái niệm này. Theo nghĩa xã hội học thì xã hội hóa là quá trình cá nhân được đào luyện để có thể sống và trở thành một thành viên hợp chuẩn trong xã hội, đứa "trẻ sói" là đứa trẻ không thể sống được trong xã hội loài người vì nó không được trải qua quá trình học làm con người để sống trong xã hội loài người. Cũng vì vậy mà văn hóa tranh luận của mỗi cá nhân trước hết cũng phải được đào luyện, được học từ trong bối cảnh gia đình, thế nhưng kiểu giáo dục con cái của đa số gia đình Việt Nam hiện nay lại gần như không trang bị cho cá nhân những phẩm chất cần thiết cho nền văn hóa này. Thật vậy trong bối cảnh gia đình Việt Nam hiện nay, mối quan hệ giữa cha mẹ-con cái là mối quan hệ giữa kẻ "thống trị" (dominant), tức cha mẹ và kẻ "bị trị" (dominé), tức con cái chứ không phải mối quan hệ giữa những chủ thể (actors) có sự độc lập và tự chủ cá nhân. Chính vì là mối quan hệ thống trị - bị trị nên cha mẹ thường chỉ giáo dục cho con cái những phẩm chất của kẻ tiếp nhận mệnh lệnh, kẻ chỉ biết vâng lời và thực hiện chứ hoàn toàn không phải là người có chủ kiến riêng nên họ cũng không bao giờ hé lộ những khả năng cho sự đối thoại hay sự tranh luận của con cái.
Rời gia đình, đứa trẻ gia nhập vào trong môi trường học đường và nơi đây đứa trẻ lại tiếp tục phải sống trong thân phận của kẻ bị trị, và người thống trị ở môi trường này chính là những thầy cô giáo của các em. Thật vậy trong nhiều năm qua, trường học gần như chỉ là nơi truyền thụ kiến thức một chiều mà trong đó thầy cô là những người nắm giữ chân lý và ban phát chân lý trong khi học sinh chỉ là kẻ tiếp nhận thụ động. Trường học Việt Nam gần như không trang bị bất cứ kỹ năng tranh luận nào cho người học cả, đồng thời cũng không mở ra các cơ hội tranh luận cho người học vì sách giáo khoa được xem là "pháp lệnh", mà đã là pháp lệnh thì không còn gì để tranh luận nữa mà chỉ cần học thuộc mà thôi. Mặc dù chúng ta đã nói tới lối giáo dục "lấy người học làm trung tâm" nhưng gần như đó chỉ là lý thuyết còn trên thực tế thì người thầy vẫn là trung tâm nên sự tranh luận giữa thầy và trò gần như là không hiện diện.
Khi gia đình và nhà trường không hề trang bị cho cá nhân những phẩm chất cần thiết để tranh luận nên chỉ có thể tạo ra được những cá nhân chỉ biết tuân lệnh trong quan hệ giữa cá nhân với Nhà nước mà cụ thể là các cơ quan công quyền. Mặc dù chúng ta nói dân làm chủ nhưng thực tế trong mối quan hệ dân-quan hiện nay, người làm chủ là quan chứ không phải là dân, bởi khi đến với các cơ quan công quyền người dân không có quyền "yêu cầu" mà chỉ được quyền "xin" mà thôi. Xin như thế nào cũng phải theo đúng khuôn mẫu do người cho (quan) qui định và quan cho bao nhiêu thì hưởng bấy nhiêu chứ hoàn toàn không được tranh luận tại sao với quan.
Như vậy có thể thấy là vì một thời gian dài chúng ta không hề đào tạo cho các cá nhân trong xã hội những phẩm chất để tranh luận, những cơ hội để tranh luận thì làm sao hình thành và phát triển được sự phản biện xã hội. Tuy nhiên nếu chúng ta tạo ra được những cá nhân biết tranh luận thì điều kiện thứ hai để phản biện xã hội có thể xảy ra đó là phải có mô hình xã hội phù hợp.
2. Phản biện xã hội và mô hình xã hội
Để phản biện xã hội có thể xảy ra thì phải có mô hình xã hội phù hợp, tức là mô hình xã hội mà ở đó quyền lực xã hội được phân tán cho nhiều thực thể khác biệt nhau chứ không chỉ tập trung duy nhất vào trong tay một thực thể nào. Trong mô hình xã hội có quyền lực phân tán, sẽ có nhiều thực thể cùng nắm quyền lực vừa độc lập nhưng cũng vừa chế định lẫn nhau để không một thực thể nào có thể tự mình quyết định mọi chuyện trong xã hội. Đồng thời các thực thể này đều phải chịu sự chi phối của thiết chế cao nhất đó là thiết chế pháp luật. Như vậy mô hình xã hội với quyền lực phân tán chỉ có thể có trong một Nhà nước pháp quyền thực sự, và vì vậy, chỉ trong Nhà nước pháp quyền thì sự phản biện mới có thể diễn ra. Ở đây cũng cần lưu ý là với mô hình Nhà nước pháp quyền "danh nghĩa" thì sẽ không thể có phản biện xã hội bởi trong mô hình Nhà nước pháp quyền danh nghĩa, quyền lực tối thượng, xét cho cùng, cũng chỉ tập trung trong tay một thực thể "ưu tuyển" (elite) nào đó mà thôi và do đó, sự phản biện xã hội nếu có diễn ra thì cũng hết sức hạn chế bởi điều này phụ thuộc vào mức độ "cởi mở" của thực thể ưu tuyển trong xã hội.
Như vậy để văn hóa tranh luận và sự phản biện xã hội thì bên cạnh những phẩm chất cần thiết của cá nhân thì còn phải có mô hình tổ chức xã hội phù hợp để cho tranh luận và phản biện được diễn ra nữa. Và cái mô hình xã hội đó đã từng được nhà chính trị học, tư tưởng gia người Pháp là Charles de Montesqieu phát họa.
3. Phản biện xã hội và xã hội dân sự
Có thể nói ngay rằng tại nước ta hiện nay chưa có xã hội dân sự đúng nghĩa của từ này và đây là nguyên nhân thứ ba làm cho văn hóa tranh luận hay sự phản biện xã hội không được hình thành. Theo cách hiểu được khá nhiều người đồng thuận thì xã hội dân sự là một không gian độc lập tồn tại bên cạnh Nhà nước và thị trường và vì vậy muốn có được nền văn hóa tranh luận hay sự tranh luận thì xã hội dân sự cần phải có sự độc lập của nó. Ở nước ta hiện nay có rất nhiều đoàn thể, hiệp hội mà xét về tính chất thì thuộc xã hội dân sự nhưng thực tế thì lại cũng thuộc về Nhà nước và tùy phụ vào Nhà nước, tức chúng ta chưa có một không gian xã hội dân sự đúng nghĩa. Nói như vậy là bởi gần như mọi tổ chức hiệp hội, đoàn thể hiện nay đều phải có một cơ quan chủ quản thuộc Nhà nước quản lý và bổ nhiệm nhân sự và vì vậy, những đoàn thể hay hiệp hội ấy thực chất là những "cánh tay nối dài" của Nhà nước chứ không phải thuộc xã hội dân sự. Khi không có xã hội dân sự đúng nghĩa thì thật khó mà có tranh luận hay phản biện bởi thực chất của phản biện xã là sự đối thoại giữa các thành phần có sự độc lập của riêng mình chứ không thể là sự đối thoại giữa những thành phần "cùng ruột" với nhau.
Như vậy có thể thấy vấn đề của phản biện xã hội không chỉ nằm ở hành lang pháp lý (cho phản biện hay không) hay ở vấn đề kỹ thuật (có lắng nghe hay không) mà nằm ở cấu trúc của xã hội và nền giáo dục xã hội có thúc đẩy cho sự phản biện, văn hóa tranh luận hay không mà thôi.
Lê Minh Tiến
KVTT - (Tính viết một cái note về các khái niệm "xã hội thần dân" và "xã hội công dân" đã dùng trong hai loạt bài "Chuyện hiến pháp" và "Chuyện giáo dục", sực nhớ hồi xưa có dịch một chương của cuốn "The case for democracy" của Natan Sharansky, "Xã hội tự do và xã hội sợ hãi". Lục trong hard disk và post lại ở đây để tham khảo khi trình này hai khái niệm kia.
Xã hội Việt Nam trong những năm đầu của thập niên thứ hai của thể ký này đã đi một đoạn đường khá xa. Nó không còn là một xã hội sợ hãi giống như xã hội Stalin mà Sharansky miêu tả. Nhưng phải mất một thời gian dài và đòi hỏi nhiều ý chí nữa trước khi có thể gọi nó là một xã hội tự do. Tương tự, xã hội dân sự ở Việt Nam, ít nhất là với khái niệm, đã bắt đầu hình thành. Nhưng đoạn đường từ xã hội thần dân đến với xã hội công dân còn xa.)
Chúng ta thường liên hệ một xã hội tự do với một số quyền căn bản nào đó. Tuy nhiên không một xã hội nào những quyền tự do này là tuyệt đối. Ở Mỹ chẳng hạn, nơi mà các quyền tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng được coi là bất khả xâm phạm, người ta không có quyền tự do để la hoảng "cháy!" trong một nhà hát đông người, hoặc chế độ đa thê được cho phép nhân danh niềm tin tôn giáo. Trong khi những thảo luận về giới hạn thích hợp nào đó của các quyền tự do có thể là những đề tài tranh luận thú vị trong các xã hội dân chủ, những thảo luận này không làm sáng tỏ được sự khác biệt nền tảng giữa một xã hội dựa trên tự do và một xã hội dựa trên sự sợ hãi.
Sự khác biệt này được nhận diện bởi những người chắc chắn phải biết rõ về đề tài này: những nhà bất đồng chính kiến Xô viết. Trong nhà tù Gulag, có nhiều loại tù nhân chính trị khác nhau: quân chủ - những người vẫn tha thiết phục hồi chế độ Nga hoàng cũ đã bị quét sạch trong cuộc cách mạng Bolshevik, những người quốc gia Ukrain đang đấu tranh để giành lại nền độc lập cho quê hương của họ sau hơn 300 thống trị của Nga, những người Pentecostal đấu tranh cho quyền tự do tín ngưỡng, những người cộng sản Âu Châu đang cố gắng một cách vô vọng để khoác một bộ mặt "nhân tính" lên chế độ cộng sản Xô viết, những người Do Thái khước từ chế độ và muốn di dân như tôi, và nhiều người khác nữa.
Trong sự đa dạng của những ý kiến khác biệt của các tù nhân chính trị này, chúng tôi đồng ý với nhau một điều: Tất cả chúng tôi đều muốn sống trong một xã hội tự do! Và bất chấp những mâu thuẫn có thể có giữa chúng tôi về một viễn cảnh nào đó cho tương lai, kinh nghiệm bất đồng chính kiến đã cho phép chúng tôi đồng ý với nhau về một định nghĩa của tự do: Một xã hội là tự do nếu người dân trong xã hội đó có quyền được bày tỏ quan điểm của mình mà không sợ bị bắt giam, bị tù đày, hoặc bị hành hung.
Mỗi tù nhân chúng tôi hình dung về một tương lai mà trong đó những quan tâm của mình là tối thượng, nhưng bất kể sự cuồng nhiệt đến mức nào đi nữa của những ước vọng riêng biệt này, tất cả những người bất đồng chính kiến đều hiểu rằng một xã hội không bảo vệ quyền được có ý kiến khác biệt, ngay cả khi xã hội này hoàn toàn tuân thủ những giá trị và ý thức hệ riêng biệt của nó, thì nó sẽ không tránh khỏi trở nên một xã hội sợ hãi và, do đó, gây nguy hiểm cho tất cả thành viên trong xã hội.
Một phương pháp đơn giản để xác định quyền được bất đồng chính kiến trong một xã hội nào đó có được tôn trọng hay không là dùng phép thử "quảng trường thành phố": một người có thể đến quảng trường thành phố và bày tỏ quan điểm của mình mà không sợ bị bắt, bị tù đày, hoặc hành hung không? Nếu một người có thể làm việc đó thì người này đang sống trong một xã hội tự do. Nếu không, thì anh ta đang sống trong một xã hội sợ hãi.
Những người đang sống trong một xã hội tự do có thể cho rằng phép thử này quá bao quát vì, cùng với nền dân chủ tự do, nó bao gồm cả những quốc gia thường vẫn không được coi là tự do. Theo phép thử "quảng trường thành phố" này thì những quốc gia nơi mà phụ nữ không được tham gia bầu cử, nơi nạn phân biệt tràn lan, nơi đời sống kinh tế bị độc quyền trong tay một thiểu số vẫn được coi là những quốc gia tự do. Sự phế phán rất chính đáng này đã chứng tỏ rằng tất cả những xã hội đáp ứng tiêu chuẩn "tự do" không nhất thiết là những xã hội "công bằng". Tuy nhiên những xã hội vượt qua được trắc nghiệm này được coi như đã bước qua ngưỡng của tự do. Ngược lại, một xã hội sợ hãi thì không bao giờ bước qua ngưỡng cửa này và luôn luôn là một xã hội bất công.
Cơ chế của bạo ngược
Công thức tôi đề nghị ở trên chia thế giới thành hai hạng, xã hội tự do và xã hội sợ hãi, và khoảng trống ở giữa. Tôi tin rằng chỉ có hai loại xã hội đó mà thôi. Một xã hội không bảo vệ quyền bất đồng chính kiến chắc chắn sẽ dựa trên sự sợ hãi. Trên thực tế, sự sợ hãi là sản phẩm tất yếu bởi cơ chế của một chính thể bạo ngược.
Hãy hình dung một xã hội thuần nhất trong đó mọi người đều suy nghĩ như nhau, chia sẻ những giá trị, niềm tin, và lối sống như nhau. Xã hội giả định này là "tự do" vì sẽ không cần có luật để ngăn cấm người ta bày tỏ ý kiến khác biệt - vì đã không có ý kiến khác biệt. Và vì tất cả mọi người đều đồng ý với ý thức hệ chung nên cũng không có những người bất đồng chính kiến.
Sự đa dạng trong đời sống con người gợi ý rằng thay đổi trong bất cứ xã hội nào là điều không thể tránh khỏi. Sẽ không có hai người nào, nói gì đến tất cả thành viên trong một cộng đồng, có chung hoàn cảnh, chung thị hiếu, chung trình độ thông minh, chung kinh nghiệm, chung sở thích,v.v...Những khác biệt tự nhiên này sẽ tất yếu đưa đến những phản ứng khác nhau trước những hoàn cảnh mới. Dù một xã hội có thuần nhất đến mức nào đi nữa thì dần dần sự khác biệt giữa những thành viên trong xã hội đó sẽ xuất hiện và gia tăng. Tốc độ của tiến trình này khác nhau tùy thuộc vào nhiều yếu tố, từ mức độ đa dạng của các thành tố xã hội đến mức độ ảnh hưởng của thế giới bên ngoài, nhưng sự khác biệt về ý kiến là điều chắc chắn.
Vấn đề trở nên là: xã hội giả định này sẽ phản ứng như thế nào trước sự khác biệt ý kiến không thể tránh khỏi như thế? Liệu nó cho phép mọi người được bày tỏ một cách tự do? Liệu nó cho phép một sự thay đổi trật tự hiện hành bằng những biện pháp dân chủ? Nếu câu trả lời là "có" thì xã hội đó vẫn là một xã hội tự do.
Nhưng nếu đa số người dân trong xã hội đó không muốn thay đổi, và muốn ngăn chặn bất cứ thay đổi nào trong tương lai thì sao? Những đạo luật nghiêm cấm bất đồng chính kiến sẽ phải được ban hành bởi đa số hoặc được áp đặt bởi chế độ. Việc các đạo luật này có trở thành biện pháp ngăn chặn hữu hiệu hay không còn tùy thuộc vào sự kiên định của những người bất đồng đối với ý tưởng của họ và tùy thuộc ở mức độ khắc nghiệt của sự trừng phạt. Nhưng có một điều rõ ràng: xã hội này không còn là một xã hội tự do nữa!
Những người "hai mặt"
Ở bất cứ nơi nào mà quyền có ý kiến khác biệt bị ngăn cấm, xã hội phân chia thành ba nhóm. Một nhóm gồm những người trung thành với trật tự hiện hành vì họ thật sự tin vào nó. Nhóm thứ hai gồm những người sẳng sàng thách thức trật tự hiện hành bất chấp sự nguy hiểm sẽ bị trừng phạt -những người bất đồng chính kiến. Với những thành viên của hai nhóm người này, không có sự khác biệt giữa ý tưởng và những điều họ nói nơi công cộng. Không giống những người trung thành và những người bất đồng chính kiến, thành viên của nhóm thứ ba không bao giờ nói điều họ nghĩ. Nhóm này bao gồm những người không còn tin vào trật tự hiện hành nhưng không dám chấp nhận những nguy hiểm gắn liền với việc bất đồng chính kiến. Họ là những người "hai mặt"[2].
Stalin chết lúc tôi mới 5 tuổi. Ngày đám tang ông ta, trong tiếng nhạc trang nghiêm từ những chiếc loa phóng thanh đầu phố và những bức chân dung to tướng của Đồng chí Stalin vĩ đại đang diễn hành qua ngỏ, cha tôi gọi người anh 7-tuổi và tôi đến. Biết chắc không có ai đang nghe trộm chúng tôi, cha tôi thì thầm, "hôm nay là một ngày trọng đại mà các con phải nhớ". Ông giải thích rằng người mà ai ai cũng gọi là "người thầy, người lãnh tụ vĩ đại" kia đã giết chết hàng triệu người và đang toan tính một làn sóng thảm sát mới đối với người Do Thái chúng tôi. "Chúng ta rất may mắn vì tên đao phủ kia đã chết". Cha tôi kết thúc bằng một lời cảnh báo nghiêm khắc rằng chúng tôi tuyệt đối không tiết lộ cho ai điều ông đã nói với chúng tôi hôm đó, rằng chúng tôi phải làm và nói theo đúng những gì những đứa trẻ con khác làm hoặc nói. Ngay từ tuổi ấu thơ như thế, miệng hát bài ca tán tụng Stalin, nhỏ những giọt nước mắt cá sấu khóc một tên sát nhân cùng với những người bạn mẫu giáo, tôi đã bước vào cuộc sống của một người Xô viết "hai mặt".
Trong một lá thư được chuyển ra ngoài trong những năm '70, một người Bắc Hàn đã giải thích làm thế nào để anh ta thấu đáo được nghệ thuật sống "hai mặt" này. "Tôi học được là nếu nói thật điều mình nghĩ, tôi sẽ chết. Tôi học được là nếu mình có điều gì muốn nói thì nói bằng mắt dễ hơn nhiều. Tôi học cách nhìn bằng môi và nói bằng mắt".
Những người "hai mặt" sống trong sự căng thẳng thường trực của khoảng cách giữa ý tưởng và ngôn ngữ. Họ luôn tránh phải nói những điều không được phép nhưng cũng phải tránh nói những điều họ không tin. Và cái xã hội sợ hãi kia vẫn không để họ yên. Nó đòi hỏi họ phải liên tục bày tỏ sự trung thành với nó. Từ lớp mẫu giáo, tiểu học, cao đẳng, nơi công sở, nhà thờ, hay bất cứ nơi công cộng nào, những người "hai mặt" phải nói như vẹt những điều của ý thức hệ mà chế độ muốn họ nói và giấu đi suy nghĩ thật của mình.
Sự "tự kiểm duyệt" thường xuyên này là một phần không thể tách rời trong đời sống thường nhật của những người "hai mặt" đến mức nó trở thành một thói quen mà ở đó sự căng thẳng của mâu thuẫn giữa ý tưởng và ngôn ngữ không còn được cảm nhận nữa. Chỉ khi nào những người "hai mặt" được tự do, họ mới nhận ra sự hiện hữu của tình trạng nộ lệ trí óc mà họ đã tự trói buộc mình trước đó.
Giai thoại và chuyện cười chính trị phơi bày tính đạo đức giả của xã hội sợ hãi được dùng như biện pháp giảm thiểu tình trạng căng thẳng trong đời sống "hai mặt". Phương thức những giai thoại và những câu chuyện cười này được truyền đạt - trong một nhóm nhỏ hay lớn, qua truyền miệng hay văn viết - phụ thuộc vào mức độ "sợ hãi" của xã hội đó. Hơn thế, số lượng những người "hai mặt" trong một xã hội sợ hãi có thể được do lượng bằng số lượng và phạm vi truyền đạt của những giai thoại và những câu chuyện như thế.
Đối với thế giới bên ngoài, không có sự khác biệt có thể nhận diện nào giữa những người "hai mặt" và những người trung thành. Cả hai nhóm người này đều có vẽ như tán thành và ủng hộ chế độ, trong khi thật ra chỉ có một nhóm. Do đó, đối với họ, một xã hội sợ hãi chỉ bao gồm hai nhóm người: một thiểu số rất nhỏ bất đồng chính kiến và một đại đa số trung thành với nhà cầm quyền. Và với mức độ khắc nghiệt đủ mạnh của sự trừng phạt, xã hội sợ hãi sẽ không có cả nhóm người bất đồng chính kiến.
Trong những năm '30, Liên bang Xô viết không có một nhà bất đồng chính kiến nào, ít nhất là không có một người nào được phương Tây biết đến. Có phải tất cả 150 triệu người sống dưới sự thống trị tàn bạo của Stalin đều là những người trung thành ? Và, đáng kể hơn, có phải sự thiếu vắng những người bất đồng chính kiến trong thời gian này là vì họ đã lần lượt bị Stalin hành quyết một cách có hệ thống ? Như thế có phải rất hợp lý không nếu cho rằng số người bất đồng chính kiến trong một xã hội sợ hãi có thể do lường mức độ nguy hiểm của việc hành xử quyền bất đồng ? Không khí chính trị ở Liên Xô trong những năm '70 ít ngột ngạt hơn trong những năm '30, và do đó, vài trăm nhà bất đồng chính kiến bắt đầu xuất hiện. Nếu Gandi của Ấn độ đối diện với chế độ chính trị của Stalin hay Hitler thì chắc chắn cuộc đấu tranh của ông đã bị dập tắt trước khi nó bắt đầu. May mắn cho ông, Gandi sống trong xã hội Anh, mặc dù là một đế quốc, nhưng vẫn là một xã hội tự do và dân chủ.
Với tất cả sự thô bạo của nó, xã hội sợ hãi đối với những người quan sát bên ngoài vẫn là một xã hội đồng nhất của những người trung thành với chế độ. Họ không biết rằng có hàng ngàn, hàng chục ngàn, trăm ngàn, ngay cả hàng triệu người "hai mặt" sống trong nỗi kinh hoàng thường trực. Mặt khác, mặc dù không thể biết được chính xác con số những người "hai mặt" trong một xã hội sợ hãi, một điều chắc chắn là số người này càng ngày càng tăng. Điều này xãy ra vì những người trung thành, một khi đã nhận ra chân tướng của chế độ, dần dần trở thành thành viên của nhóm người "hay mặt" và, trong nhiều trường hợp, trở thành những người bất đồng chính kiến kiên định.
Xã hội Việt Nam trong những năm đầu của thập niên thứ hai của thể ký này đã đi một đoạn đường khá xa. Nó không còn là một xã hội sợ hãi giống như xã hội Stalin mà Sharansky miêu tả. Nhưng phải mất một thời gian dài và đòi hỏi nhiều ý chí nữa trước khi có thể gọi nó là một xã hội tự do. Tương tự, xã hội dân sự ở Việt Nam, ít nhất là với khái niệm, đã bắt đầu hình thành. Nhưng đoạn đường từ xã hội thần dân đến với xã hội công dân còn xa.)
Chúng ta thường liên hệ một xã hội tự do với một số quyền căn bản nào đó. Tuy nhiên không một xã hội nào những quyền tự do này là tuyệt đối. Ở Mỹ chẳng hạn, nơi mà các quyền tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng được coi là bất khả xâm phạm, người ta không có quyền tự do để la hoảng "cháy!" trong một nhà hát đông người, hoặc chế độ đa thê được cho phép nhân danh niềm tin tôn giáo. Trong khi những thảo luận về giới hạn thích hợp nào đó của các quyền tự do có thể là những đề tài tranh luận thú vị trong các xã hội dân chủ, những thảo luận này không làm sáng tỏ được sự khác biệt nền tảng giữa một xã hội dựa trên tự do và một xã hội dựa trên sự sợ hãi.
Sự khác biệt này được nhận diện bởi những người chắc chắn phải biết rõ về đề tài này: những nhà bất đồng chính kiến Xô viết. Trong nhà tù Gulag, có nhiều loại tù nhân chính trị khác nhau: quân chủ - những người vẫn tha thiết phục hồi chế độ Nga hoàng cũ đã bị quét sạch trong cuộc cách mạng Bolshevik, những người quốc gia Ukrain đang đấu tranh để giành lại nền độc lập cho quê hương của họ sau hơn 300 thống trị của Nga, những người Pentecostal đấu tranh cho quyền tự do tín ngưỡng, những người cộng sản Âu Châu đang cố gắng một cách vô vọng để khoác một bộ mặt "nhân tính" lên chế độ cộng sản Xô viết, những người Do Thái khước từ chế độ và muốn di dân như tôi, và nhiều người khác nữa.
Trong sự đa dạng của những ý kiến khác biệt của các tù nhân chính trị này, chúng tôi đồng ý với nhau một điều: Tất cả chúng tôi đều muốn sống trong một xã hội tự do! Và bất chấp những mâu thuẫn có thể có giữa chúng tôi về một viễn cảnh nào đó cho tương lai, kinh nghiệm bất đồng chính kiến đã cho phép chúng tôi đồng ý với nhau về một định nghĩa của tự do: Một xã hội là tự do nếu người dân trong xã hội đó có quyền được bày tỏ quan điểm của mình mà không sợ bị bắt giam, bị tù đày, hoặc bị hành hung.
Mỗi tù nhân chúng tôi hình dung về một tương lai mà trong đó những quan tâm của mình là tối thượng, nhưng bất kể sự cuồng nhiệt đến mức nào đi nữa của những ước vọng riêng biệt này, tất cả những người bất đồng chính kiến đều hiểu rằng một xã hội không bảo vệ quyền được có ý kiến khác biệt, ngay cả khi xã hội này hoàn toàn tuân thủ những giá trị và ý thức hệ riêng biệt của nó, thì nó sẽ không tránh khỏi trở nên một xã hội sợ hãi và, do đó, gây nguy hiểm cho tất cả thành viên trong xã hội.
Một phương pháp đơn giản để xác định quyền được bất đồng chính kiến trong một xã hội nào đó có được tôn trọng hay không là dùng phép thử "quảng trường thành phố": một người có thể đến quảng trường thành phố và bày tỏ quan điểm của mình mà không sợ bị bắt, bị tù đày, hoặc hành hung không? Nếu một người có thể làm việc đó thì người này đang sống trong một xã hội tự do. Nếu không, thì anh ta đang sống trong một xã hội sợ hãi.
Những người đang sống trong một xã hội tự do có thể cho rằng phép thử này quá bao quát vì, cùng với nền dân chủ tự do, nó bao gồm cả những quốc gia thường vẫn không được coi là tự do. Theo phép thử "quảng trường thành phố" này thì những quốc gia nơi mà phụ nữ không được tham gia bầu cử, nơi nạn phân biệt tràn lan, nơi đời sống kinh tế bị độc quyền trong tay một thiểu số vẫn được coi là những quốc gia tự do. Sự phế phán rất chính đáng này đã chứng tỏ rằng tất cả những xã hội đáp ứng tiêu chuẩn "tự do" không nhất thiết là những xã hội "công bằng". Tuy nhiên những xã hội vượt qua được trắc nghiệm này được coi như đã bước qua ngưỡng của tự do. Ngược lại, một xã hội sợ hãi thì không bao giờ bước qua ngưỡng cửa này và luôn luôn là một xã hội bất công.
Cơ chế của bạo ngược
Công thức tôi đề nghị ở trên chia thế giới thành hai hạng, xã hội tự do và xã hội sợ hãi, và khoảng trống ở giữa. Tôi tin rằng chỉ có hai loại xã hội đó mà thôi. Một xã hội không bảo vệ quyền bất đồng chính kiến chắc chắn sẽ dựa trên sự sợ hãi. Trên thực tế, sự sợ hãi là sản phẩm tất yếu bởi cơ chế của một chính thể bạo ngược.
Hãy hình dung một xã hội thuần nhất trong đó mọi người đều suy nghĩ như nhau, chia sẻ những giá trị, niềm tin, và lối sống như nhau. Xã hội giả định này là "tự do" vì sẽ không cần có luật để ngăn cấm người ta bày tỏ ý kiến khác biệt - vì đã không có ý kiến khác biệt. Và vì tất cả mọi người đều đồng ý với ý thức hệ chung nên cũng không có những người bất đồng chính kiến.
Sự đa dạng trong đời sống con người gợi ý rằng thay đổi trong bất cứ xã hội nào là điều không thể tránh khỏi. Sẽ không có hai người nào, nói gì đến tất cả thành viên trong một cộng đồng, có chung hoàn cảnh, chung thị hiếu, chung trình độ thông minh, chung kinh nghiệm, chung sở thích,v.v...Những khác biệt tự nhiên này sẽ tất yếu đưa đến những phản ứng khác nhau trước những hoàn cảnh mới. Dù một xã hội có thuần nhất đến mức nào đi nữa thì dần dần sự khác biệt giữa những thành viên trong xã hội đó sẽ xuất hiện và gia tăng. Tốc độ của tiến trình này khác nhau tùy thuộc vào nhiều yếu tố, từ mức độ đa dạng của các thành tố xã hội đến mức độ ảnh hưởng của thế giới bên ngoài, nhưng sự khác biệt về ý kiến là điều chắc chắn.
Vấn đề trở nên là: xã hội giả định này sẽ phản ứng như thế nào trước sự khác biệt ý kiến không thể tránh khỏi như thế? Liệu nó cho phép mọi người được bày tỏ một cách tự do? Liệu nó cho phép một sự thay đổi trật tự hiện hành bằng những biện pháp dân chủ? Nếu câu trả lời là "có" thì xã hội đó vẫn là một xã hội tự do.
Nhưng nếu đa số người dân trong xã hội đó không muốn thay đổi, và muốn ngăn chặn bất cứ thay đổi nào trong tương lai thì sao? Những đạo luật nghiêm cấm bất đồng chính kiến sẽ phải được ban hành bởi đa số hoặc được áp đặt bởi chế độ. Việc các đạo luật này có trở thành biện pháp ngăn chặn hữu hiệu hay không còn tùy thuộc vào sự kiên định của những người bất đồng đối với ý tưởng của họ và tùy thuộc ở mức độ khắc nghiệt của sự trừng phạt. Nhưng có một điều rõ ràng: xã hội này không còn là một xã hội tự do nữa!
Những người "hai mặt"
Ở bất cứ nơi nào mà quyền có ý kiến khác biệt bị ngăn cấm, xã hội phân chia thành ba nhóm. Một nhóm gồm những người trung thành với trật tự hiện hành vì họ thật sự tin vào nó. Nhóm thứ hai gồm những người sẳng sàng thách thức trật tự hiện hành bất chấp sự nguy hiểm sẽ bị trừng phạt -những người bất đồng chính kiến. Với những thành viên của hai nhóm người này, không có sự khác biệt giữa ý tưởng và những điều họ nói nơi công cộng. Không giống những người trung thành và những người bất đồng chính kiến, thành viên của nhóm thứ ba không bao giờ nói điều họ nghĩ. Nhóm này bao gồm những người không còn tin vào trật tự hiện hành nhưng không dám chấp nhận những nguy hiểm gắn liền với việc bất đồng chính kiến. Họ là những người "hai mặt"[2].
Stalin chết lúc tôi mới 5 tuổi. Ngày đám tang ông ta, trong tiếng nhạc trang nghiêm từ những chiếc loa phóng thanh đầu phố và những bức chân dung to tướng của Đồng chí Stalin vĩ đại đang diễn hành qua ngỏ, cha tôi gọi người anh 7-tuổi và tôi đến. Biết chắc không có ai đang nghe trộm chúng tôi, cha tôi thì thầm, "hôm nay là một ngày trọng đại mà các con phải nhớ". Ông giải thích rằng người mà ai ai cũng gọi là "người thầy, người lãnh tụ vĩ đại" kia đã giết chết hàng triệu người và đang toan tính một làn sóng thảm sát mới đối với người Do Thái chúng tôi. "Chúng ta rất may mắn vì tên đao phủ kia đã chết". Cha tôi kết thúc bằng một lời cảnh báo nghiêm khắc rằng chúng tôi tuyệt đối không tiết lộ cho ai điều ông đã nói với chúng tôi hôm đó, rằng chúng tôi phải làm và nói theo đúng những gì những đứa trẻ con khác làm hoặc nói. Ngay từ tuổi ấu thơ như thế, miệng hát bài ca tán tụng Stalin, nhỏ những giọt nước mắt cá sấu khóc một tên sát nhân cùng với những người bạn mẫu giáo, tôi đã bước vào cuộc sống của một người Xô viết "hai mặt".
Trong một lá thư được chuyển ra ngoài trong những năm '70, một người Bắc Hàn đã giải thích làm thế nào để anh ta thấu đáo được nghệ thuật sống "hai mặt" này. "Tôi học được là nếu nói thật điều mình nghĩ, tôi sẽ chết. Tôi học được là nếu mình có điều gì muốn nói thì nói bằng mắt dễ hơn nhiều. Tôi học cách nhìn bằng môi và nói bằng mắt".
Những người "hai mặt" sống trong sự căng thẳng thường trực của khoảng cách giữa ý tưởng và ngôn ngữ. Họ luôn tránh phải nói những điều không được phép nhưng cũng phải tránh nói những điều họ không tin. Và cái xã hội sợ hãi kia vẫn không để họ yên. Nó đòi hỏi họ phải liên tục bày tỏ sự trung thành với nó. Từ lớp mẫu giáo, tiểu học, cao đẳng, nơi công sở, nhà thờ, hay bất cứ nơi công cộng nào, những người "hai mặt" phải nói như vẹt những điều của ý thức hệ mà chế độ muốn họ nói và giấu đi suy nghĩ thật của mình.
Sự "tự kiểm duyệt" thường xuyên này là một phần không thể tách rời trong đời sống thường nhật của những người "hai mặt" đến mức nó trở thành một thói quen mà ở đó sự căng thẳng của mâu thuẫn giữa ý tưởng và ngôn ngữ không còn được cảm nhận nữa. Chỉ khi nào những người "hai mặt" được tự do, họ mới nhận ra sự hiện hữu của tình trạng nộ lệ trí óc mà họ đã tự trói buộc mình trước đó.
Giai thoại và chuyện cười chính trị phơi bày tính đạo đức giả của xã hội sợ hãi được dùng như biện pháp giảm thiểu tình trạng căng thẳng trong đời sống "hai mặt". Phương thức những giai thoại và những câu chuyện cười này được truyền đạt - trong một nhóm nhỏ hay lớn, qua truyền miệng hay văn viết - phụ thuộc vào mức độ "sợ hãi" của xã hội đó. Hơn thế, số lượng những người "hai mặt" trong một xã hội sợ hãi có thể được do lượng bằng số lượng và phạm vi truyền đạt của những giai thoại và những câu chuyện như thế.
Đối với thế giới bên ngoài, không có sự khác biệt có thể nhận diện nào giữa những người "hai mặt" và những người trung thành. Cả hai nhóm người này đều có vẽ như tán thành và ủng hộ chế độ, trong khi thật ra chỉ có một nhóm. Do đó, đối với họ, một xã hội sợ hãi chỉ bao gồm hai nhóm người: một thiểu số rất nhỏ bất đồng chính kiến và một đại đa số trung thành với nhà cầm quyền. Và với mức độ khắc nghiệt đủ mạnh của sự trừng phạt, xã hội sợ hãi sẽ không có cả nhóm người bất đồng chính kiến.
Trong những năm '30, Liên bang Xô viết không có một nhà bất đồng chính kiến nào, ít nhất là không có một người nào được phương Tây biết đến. Có phải tất cả 150 triệu người sống dưới sự thống trị tàn bạo của Stalin đều là những người trung thành ? Và, đáng kể hơn, có phải sự thiếu vắng những người bất đồng chính kiến trong thời gian này là vì họ đã lần lượt bị Stalin hành quyết một cách có hệ thống ? Như thế có phải rất hợp lý không nếu cho rằng số người bất đồng chính kiến trong một xã hội sợ hãi có thể do lường mức độ nguy hiểm của việc hành xử quyền bất đồng ? Không khí chính trị ở Liên Xô trong những năm '70 ít ngột ngạt hơn trong những năm '30, và do đó, vài trăm nhà bất đồng chính kiến bắt đầu xuất hiện. Nếu Gandi của Ấn độ đối diện với chế độ chính trị của Stalin hay Hitler thì chắc chắn cuộc đấu tranh của ông đã bị dập tắt trước khi nó bắt đầu. May mắn cho ông, Gandi sống trong xã hội Anh, mặc dù là một đế quốc, nhưng vẫn là một xã hội tự do và dân chủ.
Với tất cả sự thô bạo của nó, xã hội sợ hãi đối với những người quan sát bên ngoài vẫn là một xã hội đồng nhất của những người trung thành với chế độ. Họ không biết rằng có hàng ngàn, hàng chục ngàn, trăm ngàn, ngay cả hàng triệu người "hai mặt" sống trong nỗi kinh hoàng thường trực. Mặt khác, mặc dù không thể biết được chính xác con số những người "hai mặt" trong một xã hội sợ hãi, một điều chắc chắn là số người này càng ngày càng tăng. Điều này xãy ra vì những người trung thành, một khi đã nhận ra chân tướng của chế độ, dần dần trở thành thành viên của nhóm người "hay mặt" và, trong nhiều trường hợp, trở thành những người bất đồng chính kiến kiên định.
Những ý tưởng được phát biểu nơi công cộng không bao giờ phản ảnh đúng những gì một người sống trong sự sợ hãi thật sự suy nghĩ. Nếu có một cuộc thăm dò ở Liên Xô năm 1985, hoặc những năm trước đó, thì chắc chắn sẽ có đến 99 phần trăm số người ủng hộ những chính sách của chế độ cộng sản. Và những ý kiến thăm dò này đã thay đổi đột ngột chỉ vài năm sau khi cộng sản sụp đổ. Lẽ nào người dân có thể thay đổi ý kiến một cách nhanh chóng như vậy? Sự thay đổi thật sự ở đây chính là những người "hai mặt" không còn sợ hãi bày tỏ ý kiến của họ nữa.
Năm 2001, trong một cuộc họp đầu tiên của chính phủ của Thủ tướng Ariel Sharon, tôi đã lập luận rằng Do Thái cần phải chấm dứt ủng hộ một lãnh tụ độc tài, thối nát như Yasser Arafat. Một nhân vật cao cấp trong chính phủ,và là người ủng hộ tiếp tục đàm phán với Arafat nói với tôi rằng "Do Thái nghĩ gì về Arafat đều không có ý nghĩa gì cả. Điều quan trọng là ông ta có sự ủng hộ và yêu mến của người dân Palestine". Tôi quả quyết với người bạn của tôi rằng nói nhân dân Palestin yếu mến và ủng hộ Arafat thì cũng như trước đây nói nhân dân Liên Xô yêu mến và ủng hộ Stalin vậy. Và cũng tương tự, trước đây người dân Liên Xô, để có thể sống được, phải bày tỏ sự trung thành với Stalin, người dân Palestin ngày nay cũng phải làm như thế đối với những người đang thống trị họ.
Những người trung thành
Uy quyền của một xã hội sợ hãi không phải bao giờ cũng chỉ dựa vào quân đội và công an. Một yếu tố không kém tầm quan trọng là khả năng của chế độ trong việc kiểm soát những gì được đọc, nói, nghe, và trên hết, suy nghĩ. Đây là phương cách mà một chế độ dựa trên sự sợ hãi duy trì một lực lượng cần thiết những người trung thành để hỗ trợ cho nó.
Chế độ cộng sản Liên Xô đã tiến rất xa trong khoa học nhào nặn trí tuệ của công dân họ, áp đặt người lớn tuổi trong những chương trình tẩy não có hệ thống, đồng thời tiêm nhiểm giới trẻ về sự sáng suốt của đảng và chính phủ Xô viết. Đối với những người đang sống trong một xã hội tự do, ý tưởng cho rằng nhà nước áp dụng những biện pháp tẩy não đối với công dân của mình là điều không thể hình dung được. Trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên, tôi có buổi họp mặt với chủ nhiệm của nhà xuất bản Random House, một người từng chỉ trích quyết liệt những vi phạm nhân quyền của nhà nước Xô viết. Ông ta hỏi tôi là người dân Liên Xô có được phép vào hiệu sách để mua sách không. Ngay lúc đó, tôi nhận ra rằng ông chủ nhiệm này đã không hiểu cơ chế vận hành của một xã hội sợ hãi. Tôi giải thích cho ông ta rằng người dân Xô viết có thể tự do đi vào bất cứ một hiệu sách nào, nhưng sách thì không.
Tất cả những xã hội sợ hãi đều phải dựa trên một mức độ nào đó của sự tẩy não. Những phương tiện truyền thông đại chúng của nhà nước không ngớt lời ca ngợi các lãnh tụ và kích động dân chúng chống lại những đối tượng được coi là kẻ thù.Nhưng rồi ngay cả những người trung thành nhất của những người trung thành cũng không thể ủng hộ một xã hội sợ hãi vô hạn định. Suốt mấy thập niên, Stalin đã khủng bố không những người dân Xô viết mà cả toàn bộ giới lãnh đạo đảng Cộng sản: một nhân vật trong Bộ chính trị có thể là một ngôi sao đang lên hôm nay những ngày mai thấy mình đang bị cùm trong một toa xe lửa đi đày ở Siberia hay đối diện với án tử hình. Sau khi Stalin chết, không ai trong đảng Cộng sản Liên Xô dám nghĩ đến việc giao quyền hành tuyệt đối như thế cho những người kế vị. Quyền lực của vị tổng bí thư kế tiếp bị giới hạn vì giới lãnh đạo của đảng muốn chấm dứt chế độ toàn trị trong đảng nhưng, quan trọng hơn, vì chính họ không muốn sống trong sự sợ hãi nữa.
Niềm hân hoan của tự do
Không sao có thể biết được chính xác mật độ phân bố của những người "hai mặt" và những người trung thành trong một xã hội sợ hãi. Nhưng từ trong kinh nghiệm đã sống với một xã hội như thế, và trong quan sát của tôi về cách hành xử của người dân trong xã hội đó, tôi tin rằng số người trung thành luôn luôn là một con số rất nhỏ. Và số người "hai mặt" nhiều hơn rất nhiều so với người ta tưởng. Hơn thế, đại đa số những người sống trong xã hội sợ hãi đều mong muốn được sống tự do.
Mức độ sợ hãi trong một xã hội càng lớn thì thay đổi xãy ra càng nhanh. Năm 1989, một sinh viên Bắc Hàn, đã đào thoát chỉ sau một thời gian ngắn theo học y khoa tại Tiệp khắc, nhận xét rằng "tuyệt đại đa số người dân Bắc Hàn, được nuôi dưỡng từ tuổi thơ coi hai cha con họ Kim là những bậc thánh, chấp nhận sự tuyền truyền của chế độ, cũng như tôi vậy cho đến khi tôi chứng kiến sự tự do tương đối của Tiệp". Một khi những chương trình tẩy não kia chấm dứt, sự thật được phơi bày, những người "hai mặt" không còn sợ hãi nữa, thì trong bất cứ xã hội nào, đa số những người không tự nguyện sống trong sợ hãi sẽ nhanh chóng xuất hiện và lên tiếng.
Hơn bất cứ lý do nào khác, điều này giải thích tại sao Đức, Nhật, Ý, Tây Ban Nha, Nga, và rất nhiều quốc gia khác đã làm cuộc chuyển tiếp từ sợ hãi sang tự do trong thế kỷ 20. Những quốc gia này có văn hóa, niềm tin, tôn giáo, ý hệ, giá trị, và tập quán khác nhau. Nhưng trên một phương diện, chúng giống nhau: người dân ở các quốc gia này không muốn sống trong sợ hãi nữa!
Không nên đánh giá thấp ý chí của những người được tự do không bao giờ muốn trở lại với sợ hãi. Thực vậy, ý thức tự do đến lúc một người từ giả thế giới của tẩy não và sợ hãi là một sự giải thoát không dễ gì quên được. Sự giải thoát của tôi khỏi thế giới sợ hãi bắt đầu khi tôi còn là một sinh viên tại Học viện Vật lý và Kỹ thuật Matxcơva, một trường được coi như MIT ở Hoa kỳ. Cho rằng những biện pháp tẩy não thông thường không thể có hiệu nghiệm ở một chốn hàn lâm với những trí thức trẻ và thông minh như thế, chế độ đã dùng những biện pháp khác. Một chương trình tuyên truyền tinh vi hơn được sử dụng, khuyến khích chúng tôi chỉ chăm chú vào sự quan trọng của những công việc trước mắt. Rằng những thảo luận về quyền, về tự do, về công lý cuối cùng cũng chỉ là những thảo luận. Rằng làm sao những ngôn từ sáo rỗng kia có thể so sánh với những định luật Newton, Galileo, hoặc Einstein? Rằng những giá trị chính trị đến rồi đi, chỉ có khoa học mới có thể đem lại chân lý hoàn vũ và vĩnh hằng...
Mỉa mai thay, tôi được dẫn dắt từ giả đời sống "hai mặt" bởi chính một người đang ở trên đỉnh vinh quang của cái "chân lý vĩnh hằng" đó. Năm 1968, trong một bài tiểu luận nhắm thẳng vào giới lãnh đạo Xô viết, Andrei Sakharov, nhà khoa học hàng đầu của Liên Xô, cho rằng sự tiến triển của khoa học không thể tách rời quyền tự do. Sự ngột ngạt trong môi trường trí thức đã cản trở tính sáng tạo và làm tê liệt khả năng Liên Xô trở thành quốc gia lãnh đạo thế giới, Sakharov viết. Lý tưởng xã hội chủ nghĩa sẽ không thể nào đạt được, ông giải thích, nếu Liên Xô không cổ xúy tự do trí thức. Với một nhận định quả cảm, Sakharov đã đánh một đòn chí mạng vào uy quyền Sô viết lúc đó. Nhà khoa học hàng đầu của một cường quốc đang tự hào với những thành tựu khoa học lập luận rằng bản chất của xã hội Xô viết chính là nguyên nhân cản trở quốc gia này tiến kịp với thế giới tự do.
Đối với những nhà khoa học trẻ tưổi đang dự liệu tương lai của họ, thông điệp này đã rõ ràng. Vị thầy mà chúng tôi kính trọng và ngưỡng mộ cảnh báo rằng thế giới của sự lừa dối sẽ không đưa đến một tương lai sáng sủa cho nhân loại, mà đưa đến sự tê liệt trí thức và trì trệ của khoa học. Sakharov, người sau này đã hy sinh tất cả để thách đố chế độ phải tôn trọng nhân quyền, trở thành nguồn cảm hứng và sự thu hút không cưỡng lại được đối với tôi. Sau này khi tôi có dịp giúp việc cho ông như một người liên lạc với các nhà báo, ngoại giao, và chính khách nước ngoài, tôi chứng kiến là không có một khoảng cách nào giữa những ý tưởng sâu kín nhất của con người khiêm tốn và vĩ đại này với những gì ông ta nói nơi công cộng. Trong trường hợp của tôi, sự hội tụ giữa ý tưởng và lời nói này, xãy ra sau khi tôi trở thành một nhà hoạt động Do Thái, chấm dứt sự bực bội, buồn phiền trong tâm khảm tôi. Gánh nặng của một đời sống "hai mặt" được trút bỏ, tôi cảm thấy như được tiếp sức bởi quyền lực vô hạn của sự giải thoát này. Một cách đột ngột, tôi trở nên tự do, suy nghĩ bất cứ điều gì và nói những điều mình nghĩ. Ngay cả trong những ngày tháng tuyệt thực trong phòng giam kín, cảm giác tự do không bao giờ rời tôi.
Đối với những người đã sống trọn đời trong sợ hãi, cảm giác này chỉ sẽ đến khi xã hội của họ trở nên tự do, khi họ cảm thấy an toàn để đến "quảng trường thành phố" và bày tỏ quan điểm của họ mà không sợ. Tôi tin chắc rằng niềm hân hoan của tự do vượt lên trên biên giới của chủng tộc, tôn giáo, văn hóa, và rằng phương thuốc tự do vô cùng hiệu nghiệm. Tôi cũng tin chắc rằng người ta khi đã được tự do thì đa số trong họ sẽ không bao giờ muốn sống trong sợ hãi nữa. Cho rằng, như những người hoài nghi thường rao giảng, dân chúng có tự do lựa chọn sống trong xã hội sợ hãi thì không khác gì cho rằng phần lớn những người nô lệ tự do lựa chọn sống trong nộ lệ vậy.
[1] The Case For Democracy - Natan Sharansky, Nhà xuất bản Public Affair 2004, ISBN 1-58648-261-0
[2] "Doublethink" trong tiếng Anh.
www.icevn.org - Benjamin Barber
Giáo sư Chính trị học phụ trách Chương trình Walt Whitman, thuộc Đại học Rutgers, New Jersey
Đây là bài nói chuyện của Giáo sư Barber trong buổi hội thảo về Xã hội Dân sự do Civnet tổ chức năm 1997. Bài này được đăng lại trong Tập san Xã hội Dân sự, bộ I, số 1, năm 1997. Những chỗ in nghiêng trong bản dịch là của người dịch để nhấn mạnh.
Tôi xin chân thành cám ơn Penn Kemble, Joseph Duffey và Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ đã mời tôi đến nói chuyện ngày hôm nay, dù biết tôi là một người hay "kiếm chuyện," một người mà hầu như chẳng khi nào dùng những mỹ từ sáo rỗng khi nói về dân chủ. Tôi thì lại nghĩ rằng họ khuyến khích tôi tới chỉ vì họ hiểu rằng, trên tất cả mọi thứ, dân chủ tức là "kiếm chuyện," là đặt vấn đề, là đương đầu với quyền lực, là thách thức các giáo điều, ngay cả đó chính là giáo điều dân chủ. Và bởi vì họ đánh giá đúng đắn rằng sau hơn 200 năm, người Mỹ cũng không nhất thiết đã tiến gần hơn tới việc thực thi được hoàn toàn dân chủ so với những nước chỉ mới có hai mươi hay chỉ hai năm kinh nghiệm về dân chủ. Những vấn đề về sắc tộc và giai cấp vẫn còn gây nhức nhối cho nước Mỹ. Penn Kemble, ngày hôm qua, đã yêu cầu những người trong hội trường này giơ tay lên nếu trong nước của họ vẫn còn có xung đột về sắc tộc. Tôi là một trong những người đó.
Chính vì bản chất của nó mà dân chủ là một tiến trình của một cuộc thử nghiệm đang diễn ra, chứ không phải là cứu cánh hay là một tập hợp các giáo điều cứng ngắc.
Nếu chúng ta, thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước, không tiếp tục gìn giữ nó, thì những lý tưởng dân chủ sẽ trở nên chẳng khác gì các ý thức hệ khác. Một xã hội mở có nghĩa là một xã hội không bao giờ có sự chấm dứt thảo luận. Một xã hội mở ra cho các thách thức và phê phán. Khi một nước tuyên bố rằng công cuộc xây dựng dân chủ tại đó đã xong, thì điều đó cũng có nghĩa là nền dân chủ cũng đã chấm dứt tại đó. Trong tinh thần hoài nghi của dân chủ, tôi muốn đặt ra một số vấn đề khó khăn mà chúng ta, những nhà giáo dục, phải đối diện. Đây là những vấn đề mà câu trả lời sẽ ảnh hưởng đến tất cả những người dân chủ, thế hệ già cũng như trẻ. Sau đây là 4 vấn đề có liên quan với nhau.
Thứ nhất: dân chủ có xuất cảng được không? Liệu dân chủ có phải là một món hàng mà người ta có thể gửi qua đường bưu điện, hay qua FedEx hay qua điện thư tới những người không có nó chăng?
Thứ hai: Có phải dân chủ chỉ là một chức năng của định chế chính trị và là một hiến pháp được viết thành văn cùng với đạo luật về dân quyền? Có phải tự do có thể chiến thắng được bằng cách viết ra hay đi mượn một hiến pháp của người khác hay chế tạo ra một mô hình quốc hội?
Thứ ba: Có phải dân chủ đồng nghĩa với thị trường không? Có chắc là sự thất bại của chủ nghĩa cộng sản và sự đắc thắng của chủ nghĩa tư bản sẽ đưa đến việc thiết lập thể chế dân chủ hay không?
Và thứ tư: Có phải dân chủ được thiết lập nhờ vào sự lãnh đạo kiên quyết của những chính trị gia anh hùng, hay những nhà lãnh đạo lỗi lạc như Churchills, de Gaulles, Roosevelts, và Havels?
Câu trả lời ngắn gọn của tôi cho các câu hỏi đó là: không, không, không, và không...
Niềm tin cho rằng dân chủ là món hàng có thể xuất cảng được là huyền thoại thứ nhất; cho rằng dân chủ chỉ là một hình thức của chính quyền là huyền thoại thứ hai; cho rằng dân chủ thoát thai từ chủ nghĩa tư bản là huyền thoại thứ ba; cho rằng dân chủ được thiết lập nhờ các nhà lãnh đạo anh hùng là huyền thoại thứ tư, và bốn huyền thoại này là những huyền thoại có sức quyến rũ nguy hiểm đối với những nhà dân chủ tương lai. Tôi sẽ nói một chút về mỗi huyền thoại này.
Về huyền thoại thứ nhất, thực ra chúng ta--những người Mỹ, Tây Âu, chứ không phải những người ở Đông Âu, Nga, Phi châu, và Á châu cùng với các nước đang có chuyển biến xã hội--mới là những người cần nhớ là dân chủ chưa bao giờ là một món quà của một dân tộc này trao cho dân tộc khác, mà nó là một kết quả rất tốn kém giành được từ những cuộc đấu tranh gian lao tại địa phương. Dân chủ là kết quả giành được, chứ không phải là món quà để cho, đó cũng là điều mà rất nhiều quý vị ngồi đây đã chứng minh, cũng như nước Mỹ đã chứng minh cho cả thế giới hơn hai trăm năm trước đây.
Hơn nữa, dù cho những cuộc đấu tranh cho dân chủ ở khắp nơi đều được đặt trên căn bản của những lý tưởng đã được chấp nhận trên toàn thế giới, các cuộc đấu tranh này và các chế độ dân chủ khi được hình thành cũng rất khác nhau. Trong những năm trước khi cuộc cách mạng tại Mỹ xảy ra, các tiểu bang theo Thanh giáo như tại Massachussetts, cấp tiến như tại Pennsylvania và những tiểu bang có nô lệ tại miền Nam đều có những hệ thống chính trị khác nhau. Và những định chế chính trị địa phương của chúng ta ngày nay thể hiện sự khác biệt này. Cây dân chủ mọc lên khác nhau theo từng xứ, và ở mỗi nước, cây dân chủ trưởng thành khác nhau. Người dân Thụy sĩ coi trọng quyền của cộng đồng hơn quyền của cá nhân. Anh quốc không có sự phân quyền rõ rệt, trong khi người Mỹ lại cho rằng không thể tách rời sự phân quyền ra khỏi chính quyền. Hiến pháp mới của Ethiopia lại phải đề cập tới truyền thống bộ tộc. Ba-lan là một nước theo Công giáo và không thể xóa mờ ảnh hưởng của Công giáo ra khỏi các định chế chính trị mới xây dựng, trong khi đó Ái-nhĩ-lan lại không có sự phân cách giữa giáo hội và nhà nước. Nước Đức theo thể chế liên bang, còn Pháp lại là nước theo thể chế chính quyền trung ương. Những sự khác biệt giữa các nền dân chủ đã được thành lập cho ta thấy sẽ còn rất nhiều những sự khác biệt trong những nền dân chủ mới đang được thành lập.
Các nền dân chủ mới cần tìm ra cho mình các định chế thích hợp và, tôi tin rằng, sẽ thành công khi tìm từ các nguồn cảm hứng ngay trong lịch sử và văn hóa của chính mình. Tỷ dụ định chế cộng đồng làng xã ở Nga, hay tổ chức hữu nghị của Romania, hay ngay cả Ủy ban Lao động của thời Xô-viết cũng là một cơ cấu đáng lưu ý, miễn hồ cơ cấu này không bị những người Bolshevic hay Cộng sản lũng đoạn. Từ bỏ chủ nghĩa cộng sản không nhất thiết phải quăng hết vào thùng rác các chiến lược kinh tế khác như hợp tác xã hay nhân viên được chia cổ phần của công ty. Vào thời cổ, người ta thường nói rằng: "Đừng tin người Hy lạp, nhất là khi họ mang theo quà tặng." Các nền dân chủ mới cũng vậy, quý vị cũng nên nghi ngờ những nền dân chủ đã thành hình nhất là khi họ mang theo những lời khuyên làm quà tặng. Kể cả những điều do tôi cố vấn. Cuộc thử nghiệm dân chủ độc đáo của nước Mỹ chỉ có thể được mô phỏng hoặc vay mượn khi mỗi nước cũng thấy được mô hình dân chủ của chính mình cũng độc đáo và cũng mang tính chất thử nghiệm. Điều này trở nên rõ rệt hơn khi chúng ta bàn đến vấn đề sự thể hiện của dân chủ qua các định chế chính trị.
Đến đây tôi xin nói về huyền thoại thứ hai, tức là huyền thoại cho rằng dân chủ chỉ gồm một số các định chế chính trị, như những chiếc xe cũ có thể xuất khẩu được từ nước này sang nước nọ: Chỉ cần thay vài bộ phận mới, chỉnh chỗ này một tý, sửa chỗ kia một tý cho hợp với khí hậu, là ta có thể lái đi bất cứ nơi đâu. Nhưng dân chủ không phài là bản họa đồ của xe hơi. Cây dân chủ không thể bị áp đặt từ trên xuống, mà phải mọc từ dưới lên. Xin nhớ: Hiến Pháp không tạo nên dân chủ, mà chính dân chủ tạo nên hiến pháp. Đạo luật về dân quyền không tạo ra quyền mà chỉ điển chế hóa các dân quyền đã được định nghĩa, đã do người dân giành được qua đấu tranh. Nước Mỹ có một trăm năm mươi năm kinh nghiệm về xã hội dân sự và văn hóa công dân địa phương trước khi những kinh nghiệm này được ghi vào trong hiến pháp và đạo luật dân quyền. Nước Anh cho đến nay vẫn còn chưa viết thành văn bản hiến pháp quy định các quyền tự do mà dân Anh đã được hưởng từ nhiều thế kỷ. Đạo luật dân quyền chẳng qua chỉ là một miếng giấy! Như Madison [1] đã từng nói, "Một thứ rào cản bằng giấy" không thể nào bảo vệ được cho tự do thực sự. Không có công dân thì sẽ không có tự do, và nếu không có giáo dục và văn hóa công dân, thì sẽ không có công dân--đó là lý do tại sao công việc của quý vị trong tư cách những nhà giáo dục, những nhà hoạt động xã hội, những nhà hoạt động cộng đồng thiện nguyện, phi-chính phủ lại trở nên vô cùng quan trọng. Dân chủ, như John Dewey đã nói, không phải là một mô hình chính quyền, mà là một cách sống, là một tập hợp của những thái độ cư xử đã thành tập quán, của sự suy tư vừa độc lập vừa hợp tác, của cả những mâu thuẫn và đồng thuận về quan điểm. Nước Liên Xô cũ có một đạo luật về dân quyền tuyệt hảo đấy chứ, tôi rất ngạc nhiên khi một sinh viên đọc cho tôi nghe đạo luật này. Nó còn tốt hơn cả đạo luật về dân quyền của Mỹ!
Nhưng dĩ nhiên, nó chỉ là một mảnh giấy vô dụng, bởi vì không có công dân [yểm trợ], nó hoàn toàn vô nghĩa.
Nước Nga ngày nay và các thành viên khác của Liên Xô cũ đã có những định chế dân chủ được thiết lập, nhưng sự khó khăn đang xảy ra tại những nước này, như quý vị đều biết, là tạo được cho những định chế này một căn bản về xã hội dân sự, về tôn giáo dân sự, về lòng khoan dung và tương trợ trong giao tế.
Và để xây dựng những điều này cần có thời giờ. Sự kiên nhẫn là đức tính vĩ đại nhất của dân chủ, nhưng ta lại luôn luôn thiếu đức tính này. Hỡi những quý vị đang ở trong những nước mới giành được dân chủ hay đang chuyển tiếp sang dân chủ, quý vị mong muốn làm được trong 6 tháng hay 6 năm những điều mà chúng tôi, những nước đã có dân chủ ổn định, đã làm trong 60 hoặc 600 năm mà vẫn chưa xong. Và những vấn nạn của quý vị, dĩ nhiên, không phải là những vấn nạn dễ dàng giải quyết, vì sự quan tâm của quần chúng đối với các vấn đề xã hội -trong cả những nước dân chủ cũ và mới-đang bị những thế lực khác thu hút. Những nhà giáo dục thực sự của thanh thiếu niên ở Mỹ, Âu châu, Phi châu, và Á châu không phải ở trong học đường, các giáo đường Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, hay Do Thái giáo, hay trong gia đình, mà là ở vô tuyến truyền hình và phim ảnh. Liệu một giờ giáo dục công dân, mỗi tuần một hay hai lần, có thể cạnh tranh với MTV được không? Liệu một cuộc vận động tranh cử có thu hút được sự chú tâm của cử tri bằng một giờ phim "bộ" không? Liệu chúng ta có thể dạy về hòa bình trong khi phim ảnh cổ xúy bạo lực không? Liệu một nhóm NGO hay ngay cả hai mươi lăm ngàn tổ chức NGO có so sánh được với McDonalds hay Microsoft, hay công ty Walt Disney không? Diễn giả Cooke, tối hôm qua, đã nhắc chúng ta rằng, dù tốt hay xấu thì phim ảnh cũng là nhà giáo trong thời đại của chúng ta. Rủi thay, đó lại là nhà giáo dở. Tôi cũng để ý thấy phần lớn những phim mà diễn giả Cooke lựa chọn, toàn là những phim đã hai mươi, ba mươi, hay bốn mươi tuổi. Gần đây ta không còn thấy những phim ảnh loại này nữa. Những bài học của Oliver Stone, Kevin Costner và Arnold Schwarzeneger không phải là, và không thể là những bài học công dân. Mục đích của những bài học này rất đơn giản: kiếm được nhiều tiền lời so với số tiền đã đầu tư. Những bài học này không phải để gieo truyền dân chủ mà chỉ để bán cho được nhiều vé.
Và đó chính là sự khác biệt.
Sự khác biệt này dẫn đến điều thứ ba, một huyền thoại mà theo tôi khó giải thích nhất. Trước hết, dân chủ không đồng nghĩa với thị trường tự do. "Cái" tự do để mua một lon Coke hay một cuốn video phim Lion King không phải là thứ tự do để xác định xem là ta sẽ sống với nhau như thế nào và ở dưới thể chế nào. Coke, McDonalds và MTV, xin quý vị đừng quên, đều có mặt ở Singapore, Trung Hoa, và Trung Đông, và ở những nơi không có dân chủ, cũng như có mặt ở Nga, Cộng hòa Tiệp, Đức, và Mỹ. Mặc dù tôi không có ý phản bác lập luận đồng hóa dân chủ với thị trường, nhưng tôi sẽ phải làm điều đó. Lịch sử đã chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản không tạo ra dân chủ. Chính dân chủ mới tạo ra chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản cần đến dân chủ. Điều đó đúng, nhưng không nhất thiết chủ nghĩa tư bản biết cách tạo ra và duy trì dân chủ.
Huyền thoại thị trường, theo tôi, là một huyền thoại hiểm độc nhất, bởi vì có quá nhiều người tin vào nó. Bởi vì cái cùm của thị trường quá êm ái, và bởi vì ảnh hưởng của nó quá vô hình. Quá nhiều người tin rằng chỉ cần thay đổi chủ nghĩa cộng sản cùng với nền kinh tế chỉ huy của nó bằng chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường là đủ để củng cố dân chủ. Nhưng tôi e rằng người ta đã lầm lẫn tai hại giữa một bên là thị trường được điều tiết uyển chuyển-phương tiện hữu hiệu nhất để gia tăng sản xuất và tích lũy tài sản, với một bên là thị trường hoàn toàn tự do để người ta sản xuất và phân phối mọi thứ, từ hàng hóa đến các giá trị tinh thần, từ sự phát triển tư bản đến công bằng xã hội, từ lợi nhuận đến bảo vệ môi trường, và từ tài sản cá nhân đến tài sản chung của đất nước.
Lập luận này khiến cho một số người yên chí rằng cứ giao các chức năng công cộng như giáo dục, văn hóa, an sinh xã hội, môi trường, và công ăn việc làm cho lãnh vực tư nhân của thị trường là xong cả. Nhưng thị trường không phải được thiết lập ra để làm công việc của các định chế chính trị dân chủ. Thị trường tạo ra một môi trường thảo luận tưđể cho chúng ta, những người tiêu thụ, cất lên tiếng nói bằng tiền bạc với những nhà sản xuất hàng hóa; chứ không phải là một diễn đàn công cộng để chúng ta, những công dân, thảo luận với nhau như một tập thể về những hệ quả xã hội phát xuất từ những chọn lựa riêng tư trong thị trường. Thị trường gia tăng các mục tiêu cá nhân hơn là mục tiêu xã hội và cho phép ta, từng người một, nói rằng: Tôi muốn có một đôi giày Nike, hay một cái máy VCR, hay mua tiền Yen hoặc bán đồng đô-la. Nhưng thị trường không cho phép ta nói một tiếng nói chung rằng khu vực nội-vi thành phố[2] cần có một trung tâm thể thao mới, hay là có quá nhiều bạo lực trên truyền hình và phim ảnh, hay chúng ta cần kiểm soát Ngân hàng Thế giới.
Thị trường không có chỗ cho "tư duy chung" hay "hành động chung," mà đặt hy vọng vào sức mạnh do nhiều lựa chọn cá nhân kết hợp lại, sẽ một cách nào đó, mang lại lợi ích chung. Người tiêu thụ sử dụng ngôn ngữ "tôi," trong khi công dân dùng ngôn ngữ chung "chúng ta." Thị trường mang tính chất giao kèo giữa cá nhân hơn là tập thể khiến cho tự ái cá nhân được thỏa mãn, nhưng không thỏa mãn được khát vọng tập thể. Thị trường mang lại cho ta những sản phẩm bền chắc và những mơ ước phù du, nhưng không đem lại cho ta được một căn cước chung của những thành viên trong một cộng đồng. Và điều này tạo cơ hội cho sự thành hình những mô hình tập thể phi-dân chủ như ở các bộ tộc dã man.
Là những công dân, chúng ta đối phó như thế nào đối với những sự sai trái dù không cố ý do thị trường quốc gia cũng như toàn cầu gây nên? Liệu ta có thể tạo nên được cái "chúng ta" liên-quốc gia từ những "cái tôi" tham lam của người tiêu dùng không? Thị trường cung cấp cho ta sản phẩm, nhưng không cung cấp cho ta đời sống mà ta muốn; nó tạo phồn vinh cho một số người, nhưng cũng gây khốn nạn cho những người khác, và làm mất hết lòng tự trọng ngay cả đối với những kẻ giàu có. Năm trăm đại công ty đa- quốc gia đứng hàng đầu thế giới có ảnh hưởng hơn không những hai mươi lăm ngàn NGO, mà còn hơn cả gần 200 quốc gia trên thế giới, và càng ngày những công ty này, chứ không phải các quốc gia, càng có nhiều quyết định ảnh hưởng đến tương lai của toàn nhân loại. Những công ty này cần có những tổ chức dân chủ của công dân để tồn tại và hoạt động, nhưng họ không biết làm thế nào để sản xuất ra những tổ chức này.
Đó chính là nghịch lý của thị trường. Nó không thể tồn tại trong một thế giới [đầy dẫy những cạnh tranh] mà chẳng chóng thì chày nó cũng tạo ra, nếu nó không được điều tiết bởi các lực lượng dân chủ và công dân, mà chẳng chóng thì chày những lực lượng này cũng bị nó làm cho suy yếu. Những hệ quả thảm khốc xảy ra từ việc áp dụng các mô hình chính trị theo khuôn mẫu lý thuyết kinh tế vĩ mô đã quá hiển nhiên tại những nước từ Nga tới châu Mỹ La tinh và Phi châu, nơi O'Donnell, một khoa học gia về chính trị đã nói: "Khi không gian tư phát triển, thì không gian công sẽ sụp đổ." Và ông kết luận một cách đơn giản và khẳng quyết rằng tư nhân hóa không phải là dân chủ hóa. Như vậy, không những ta cần phải tiến xa hơn cái mô hình dân chủ của thị trường, mà thị trường cũng cần phải có các lực dân chủ để điều chỉnh nó thì nó mới tồn tại được. Thị trường, tự nó sẽ không tạo ra dân chủ. Để bảo đảm công ăn việc làm, y tế công cộng, an sinh xã hội, giáo dục, văn hóa đa dạng và cạnh tranh thực sự, thị trường rồi sẽ bị sét rỉ, bào mòn dần đi, không phải vì ác ý, nhưng vì người ta thờ ơ và quan tâm đến những điều khác. Chủ nghĩa tư bản cần tất cả những điều này, nhưng tự nó không sản xuất ra được.
Và ở đây có một điều nguy hiểm, nhất là tại những xã hội cựu cộng sản. Song song với sức quyến rũ của thị trường và tư nhân hóa đang xảy ra tại những nước này, nỗi sợ về sự độc tài chuyên chính của chính quyền [trong quá khứ] dẫn đến nỗi sợ về tất cả những sự can thiệp của chính quyền và sợ luôn cả chính quyền dân chủ. Tôi đã thấy người dân tại các nước Đông Âu và Xô-viết rất ngại ngùng khi nói đến cộng đồng hay sự đoàn kết của công dân. Tôi cũng hiểu rằng chương trình công dân giáo dục có thể làm cho họ nhớ lại chuyện bị nhồi sọ hay một hình thức tuyên truyền mới của nhà nước. Nhưng nếu họ nghĩ rằng cứ để những điều cần thiết vừa nêu cho thị trường và để cho thị trường làm những việc mà chính quyền dân chủ phải làm, thì đó lại là một thứ huyền thoại đáng ghê sợ.
Thế thì chúng ta phải làm gì nếu dân chủ không phải là vay mượn hay được tạo mẫu bằng một vài cải cách chính trị hay tư nhân hóa? Có phải ta cần có những anh hùng để mang lại cho ta tự do hay không? Đến đây là huyền thoại cuối cùng tôi muốn trình bày với quý vị. Tôi nghĩ, và tôi tin là rất nhiều quý vị cũng chia sẻ niềm tin này như tôi, là phẩm chất của một nền dân chủ không do phẩm chất của nhà lãnh đạo tạo nên mà do chính phẩm chất của công dân. Chỉ có những chế độ Phát-xít, cộng sản và độc tài mới cần có các lãnh tụ vĩ đại để tồn tại.
Các chế độ này chẳng có gì hơn là các nhà lãnh đạo của họ. Họ chỉ có thế thôi. Dân chủ cần có những công dân hữu hiệu, những người dân nam, nữ bình thường làm những việc phi thường một cách liên tục và đều đặn. Trong vở kịch Galileo của Bertolt Brecht, có một màn trác tuyệt, khi một nhân vật nói với một nhân vật khác: "Thương thay cho một nước không có anh hùng." Và nhân vật kia trả lời: "Không, thương thay cho một nước cần có những anh hùng." Dân chủ là một hình thức chính quyền không cần có anh hùng, và một quốc gia có nền dân chủ thành công không cần có anh hùng. Năm 1890, trong một cuộc họp của đảng Nhân dân[3] sau khi đảng này bị thất cử vì kế hoạch kinh tế của họ không thu hút được sự ủng hộ của đa số trong xã hội, một đảng viên đã nói với Eugene Debs, lãnh tụ của đảng, như sau: "Thưa lãnh tụ, người phải lãnh đạo chúng tôi và đưa chúng tôi ra khỏi tình trạng tối tăm này." Eugene Debs đã trả lời: "Tôi sẽ không làm điều này. Tôi không thể làm được. Và nếu có làm được, tôi cũng không làm. Vì nếu tôi có thể đưa các bạn thoát ra cảnh tối tăm này, thì chính tôi cũng có thể đưa các bạn vào trở lại." Tại vô số các nền dân chủ mới, tôi thấy bóng ma của nhân dân nam nữ được các anh hùng dẫn ra khỏi bóng tối của chủ nghĩa cộng sản, rồi sau đó thất vọng, lại bị dẫn vào trở lại trong sự tối tăm của chủ nghĩa quốc gia bởi chính những anh hùng đó. Chúng ta cần những xã hội được miễn nhiễm đối với chủ nghĩa anh hùng loại đó, những xã hội mà công dân chính là người lãnh đạo của chính họ, và làm những việc cần làm một cách bình thường mỗi ngày.
Công việc xây dựng dân chủ, nói cách khác, là công việc của chính chúng ta, những việc khó khăn, đời thường, và không bao giờ chấm dứt của giáo dục công dân; công việc của những tổ chức phi-chính phủ đang cố gắng xây dựng nên một xã hội dân sự liên-quốc gia.
Và tôi sẽ bắt đầu bằng cách đặt tên lại cho những tổ chức phi-chính phủ. Tổ chức phi-chính phủ, cái tên nghe ghê rợn xiết bao. Không thể nào có điều gì tốt phát xuất từ những thực thể được định nghĩa bằng phủ định. Chắc chắn là những tổ chức này phải hơn hẳn những cái gọi là "phi-chính phủ" chứ. Đó là những tổ chức công.[4] Đó là những tổ chức phi-thương mại, phi-tổ hợp, và hoàn toàn tự nguyện. Những tổ chức này phi-tư nhân, hiểu theo nghĩa đó là của riêng của cá nhân, và phi-nhà nước nhưng không mất đi quan tâm chung về công bằng và phúc lợi công cộng. Những tổ chức này là sức mạnh vĩ đại của chúng ta, tôi tin như vậy. Nhưng những tổ chức này không nên được gọi là "phi-chính phủ" mà phải gọi là những tổ chức "của công dân" (pro-civic). Hãy gọi đó là những "tổ chức công dân" hay "hiệp hội dân sự," những tổ chức đứng giữa một bên là chính quyền đã trương phồng quá mức và một bên là các công ty tư nhân cũng trương phình quá mức. Những tổ chức dân sự này xác định một lãnh vực quan yếu, nơi mà tự do được nuôi dưỡng và phát triển.
Lãnh vực này là của chúng ta. Nó thuộc về chúng ta. Không gian dân sự là không gian của chúng ta. Nhưng đối với phần đông, ngày nay, không gian này chỉ hiện hữu trong sự tưởng tượng. Trong thực tế, ta có những khu thương xá, rạp hát, và cơ quan hành chánh, nhưng có rất ít không gian dân sự như cái không gian chúng ta vừa tạo ra tại đây trong mấy ngày qua. Tôi không biết chắc mô hình tương lai của xã hội dân sự sẽ như thế nào, dù đề tài của buổi hội thảo này là "Tương lai của xã hội dân sự." Tôi khá là bi quan, như quý vị đã thấy, một phần vì những huyền thoại tôi vừa trình bày đã được phát tán quá rộng, quá mạnh và quá độc hại. Tôi chỉ biết rằng nếu không có một xã hội dân sự khỏe mạnh, thì sẽ không có những công dân, mà chỉ có những người tiêu dùng hay thần dân của những nhà nước bạo ngược. Và nếu không có công dân, thì cũng sẽ không có dân chủ. Có một tin mừng là chúng ta còn có một sự lựa chọn. Các nhà giáo dục, các nhà tổ chức cộng đồng, các tổ chức NGO hiện diện trong phòng này, và tất cả các bạn ở mọi nơi, chúng ta có thể thay đổi tình hình. Nhưng công việc này thì khó khăn, chướng ngại vật thì lại nhiều vô kể, và những huyền thoại vẫn còn đang lan truyền khắp chốn. Khoảng hai trăm, hay hai trăm năm chục năm trước, trước cả khi xảy ra Cách mạng Pháp rất lâu, Jean Jacques Rousseau đã nói: "Tự do là một loại thực phẩm dễ ăn, nhưng khó tiêu." Nếu ta không cẩn thận, ở New York và Washington, cũng như ở Prague, Moscow, London, Paris, và ở Ethiopia hay Singapore, thì có thể chúng ta trong thế kỷ tới sẽ tạo ra những xã hội không những không có tự do, mà còn vĩnh viễn mang chứng khó tiêu.
Cám ơn quý vị đã theo dõi.
© Học Viện Công Dân 2009
"Benjamin Barber deflates the four myths of democracy." Journal: Civnet's Journal For Civil Society. Vol. 1, No. 1 (May 1997)
[1] James Madison, một trong những "quốc phụ" của Mỹ. Ông là tác giả chính của mô hình chính quyền liên bang và hiến pháp của Mỹ tại Quốc hội Lập hiến năm 1787 tại Pennsylvania, và là tác giả của Đạo luật Dân quyền (Bill of Rights). Ông cũng là tổng thống đời thứ tư của Mỹ.
[2]Các khu vực nội-vi thành phố (inner city) tại các thành phố lớn ở Mỹ thường là những khu nhà lụp xụp, nghèo nàn và nhiều tội ác.
[3] Đảng Nhân dân được thành lập năm 1892 tại Mỹ, phát xuất từ phong trào do nông dân khởi xướng, chống lại tiến trình công nghiệp hóa đang diễn ra. Đảng này ra tranh cử tổng thống nhiều lần, nhưng không thành công.
[4] Khái niệm "công" (public) còn khá mới với độc giả VN. Khi nói đến "của công," ta thường nghĩ ngay đến những gì của nhà nước, như trường công, nhà thương công. Tại Mỹ và Tây Âu, xã hội dân sự được quan niệm có 3 lãnh vực: tư nhân, chính quyền, và lãnh vực công. Lãnh vực công là lãnh vực của chung tất cả mọi người, không thuộc tư nhân cũng như chính quyền. Thí dụ như những đài phát thanh hay phát hình công (public radio, television) tại Mỹ có ngân sách hoạt động hoàn toàn do tư nhân đóng góp và hoạt động theo tôn chỉ và mục đích do một Ban quản trị hoạt động độc lập, không chịu sự chi phối về đường lối của bất cứ ai, kể cả chính quyền. Dĩ nhiên, những tổ chức công này phải tuân theo luật về tổ chức và tài chánh của nhà nước, nhưng chỉ như vậy mà thôi.











