• Trang Chủ
  • Giới Thiệu
  • Khát Vọng Tuổi Trẻ
    • Góc Bình Luận
    • Góc Nghiên Cứu
    • Chủ Quyền Thiêng Liêng
  • Điểm Tin
    • Tin Thế Giới
    • Tin Việt Nam
    • Công Lý - Sự Thật
    • Nhân Quyền - Dân Chủ
  • Công Dân Học
    • Trách Nhiệm Công Dân
    • Kỹ Năng Công Dân
    • Giáo Dục
  • Bảo Mật
    • Vượt Tường Lửa
    • Mã Hóa Dữ Liệu
    • Sử Dụng Phần Mềm
  • Tâm và Tầm
    • Lời tâm sự
    • Mơ làm thủ tướng
  • Góc Thư Giãn
    • Chuyện Lạ
    • Truyện Cười
    • Góc Thơ
  • Góc Danh Nhân
    • Nguyễn Trường Tộ
    • Phan Châu Trinh
    • Phan Khôi
You are here : Home »
Hiển thị các bài đăng có nhãn tin tiêu điểm. Hiển thị tất cả bài đăng
Blog Xuân Diện: Luật sư Hà Huy Sơn vừa cho biết: Sáng nay khoảng 10h (06/02/2012), tôi nhận được bì thư Bưu điện ngày 02/02/2012, Văn bản của UBND Tp.Hà Nội về việc Đơn khiếu nại của chị Bùi Thị Minh Hằng đề nghị TS post cho mọi người quan tâm được biết.

BBC - Công an tỉnh Phú Yên vừa loan báo ‘chiến công’ phá tan một ‘tổ chức phản động’ và bắt giữ 10 thành viên cao cấp của tổ chức này tại khu vực núi Đá Bia thuộc huyện Đông Hòa.

Tổ chức này có tên gọi ‘Hội đồng công luật công án Bia Sơn’, Thiếu tướng Phạm Văn Hóa, giám đốc công an tỉnh Phú Yên, cho biết trong cuộc họp báo về vụ việc sáng thứ Hai ngày 6/2.

Đây là tổ chức hoạt động chống lại sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam theo phương thức bất bạo động với phương châm ‘bất chiến tự nhiên thành’.
Túp lều 5 chị em nhà bà Hiền dựng lên từ hôm mùng 1 tết
ngay trên nền căn nhà hai tầng đã bị đập - (Ảnh: baomoi) 
Baomoi.com - Chiều 26.1, PV Thanh Niên đã về khu đầm bị cưỡng chế của ông Đoàn Văn Vươn ở xã Vinh Quang, H.Tiên Lãng, TP.Hải Phòng. Trên nền nhà từng bị san phẳng mới dựng lên một túp lều bạt tuềnh toàng, đó là nơi bà Nguyễn Thị Thương (vợ ông Đoàn Văn Vươn) và Phạm Thị Hiền (vợ ông Đoàn Văn Quý) ở.

Trong căn lều chỉ có một tấm chăn, một bát hương, không có người. Qua điện thoại, bà Hiền cho biết bà đang ở Hà Nội tìm đường kêu cứu cho chồng. “Mãi hôm 29 tết, những người của xã rút đi, đến sáng mùng 1, chúng em xuống lại khu đầm để dựng tạm căn lều bạt, em và chị Thương ở đó từ mùng 1 tết”.

Đáng chú ý, theo bà Hiền, toàn bộ 5.000 con cá vược loại 1-1,5 kg/con, 7.000 con cá trắm, trọng lượng 2-3 kg/con, 3.000 con cua giống đã bị đánh bắt hết. Tính tổng trị giá cá nuôi đã lên tới hơn 1,5 tỉ đồng, chưa kể cua, tôm tự nhiên và hàng ngàn buồng chuối.

“Khi em về thì người ta đã đánh bắt gần hết, trong đầm bây giờ em không thấy tăm cá, cua nào ngoi lên. Chính những người từng mua cua, cá nhà em những năm trước đã đến đây mua của họ”, bà Hiền nói.

Chúng tôi hỏi “họ” là ai, bà Hiền cho biết, đó là người nhà gia đình T.K, một chủ đầm gần đó. “Chính nhà này đã cho người xuống tiếp quản đầm nhà em ngay sau khi anh Vươn bị bắt”, bà Hiền nói.

Trong khi đó, ông H., một chủ đầm ngay cạnh đầm nhà ông Đoàn Văn Vươn cũng xác nhận: “Sáng hôm 6.1 (vụ cưỡng chế xảy ra sáng 5.1), tôi tỉnh dậy thì thấy đầm nhà anh Vươn đã bị tháo nước, hôm sau thì thấy nhiều người bắt cá, tôm. Có hôm tôi thấy 3 người dùng kích điện để bắt cá ở khu đầm này”.

Hôm 20.1 đoàn giám sát của Ủy ban T.Ư Mặt trận tổ quốc (MTTQ) Việt Nam xuống làm việc tại H.Tiên Lãng để tìm hiểu vụ việc cưỡng chế đầm của ông Vươn. Trong cuộc làm việc với cơ quan đoàn thể, chính quyền, MTTQ TP.Hải Phòng, H.Tiên Lãng, Trưởng đoàn giám sát Nguyễn Công Nguyên lưu ý: Căn nhà của ông Vươn, ông Quý đã bị san phẳng, vợ con hai ông này không có nơi ở, MTTQ huyện cần quan tâm, thăm hỏi gia đình những người này. Đại diện MTTQ TP.Hải Phòng khẳng định sẽ không để gia đình nào không có tết, MTTQ TP giao cho MTTQ H.Tiên Lãng quan tâm tới hai hộ này. Tuy nhiên, bà Hiền cho biết, mấy ngày tết vừa qua, bà chỉ nhận được sự hỏi thăm, giúp đỡ từ bà con nhân dân ở trong và ngoài Hải Phòng chứ không hề có cơ quan đoàn thể hay cán bộ MTTQ của xã, huyện hay TP đến thăm hỏi.

Đông Bắc - Hải Đăng 

Nguồn: www.baomoi.com
Dân Biểu Loretta Sanchez gặp đại diện thương mại, vận động nhân quyền Việt Nam
Dân Biểu Loretta Sanchez. (Hình: Abby Brack/Getty Images)

WESTMINSTER (NV) -“Mỗi lần Việt Nam được một thành tựu trong mậu dịch, như PNTR trong thương mại song phương với Mỹ, WTO, hay vào Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, là một lần Việt Nam nuốt lời hứa về nhân quyền và đàn áp nhiều hơn thay vì tự do nhiều hơn.” Nhận định này của Dân Biểu Loretta Sanchez là điều mà bà nói với vị đại diện thương mại Hoa Kỳ về việc đàm phán với Việt Nam trong hiệp định thương mại TPP.

Cuộc gặp gỡ giữa Dân Biểu Sanchez với Ðại Sứ Ron Kirk diễn ra hôm Thứ Tư, và được dân biểu này thuật lại trong một cuộc họp báo qua điện thoại với báo chí Việt ngữ hôm Thứ Năm.



Ðại Sứ Kirk, đại diện mậu dịch Hoa Kỳ, hiện đang thương thuyết với 9 nước vùng Thái Bình Dương cho một hiệp định ngoại thương giảm bớt các loại thuế xuất nhập cảng trong vùng. Hiệp định này, mang tên tắt TPP và tên tiếng Anh là Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement, có tên tiếng Việt là Hiệp định Ðối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương.

Cả Việt Nam lẫn Mỹ đều đang thương thuyết để gia nhập TPP. Trả lời câu hỏi của báo Người Việt là nếu Mỹ cũng chỉ đang thương thuyết để gia nhập TPP thì những yêu cầu của Mỹ có sức nặng tới đâu, Dân Biểu Sanchez quả quyết:

“Ðúng là chúng ta chỉ là 1 trong 9 quốc gia TPP, nhưng chúng ta là thị trường lớn nhất. Hoa Kỳ là thị trường tiêu thụ lớn nhất trong các nước này.”

Cuộc gặp giữa Dân Biểu Sanchez và Ðại Sứ Kirk xoay quanh vấn đề nhân quyền tại Việt Nam và những lần thất hứa của Việt Nam sau những bước tiến thương mại và ngoại giao.

Bà nói bà thuật lại cho Ðại Sứ Kirk những gì Việt Nam đã vi phạm trong quá khứ.

“Việt Nam ngày càng bỏ tù nhiều người, không chỉ các vị lãnh đạo tôn giáo hay những người tranh đấu đòi dân chủ, mà cả những người trẻ lên Internet nói lên những vấn đề của đất nước, như nhạc sĩ Việt Khang,”
Dân Biểu Sanchez nói.

“Sau bình thường hóa mậu dịch (PNTR) với Mỹ, sau khi vào WTO, sau khi có ghế trong Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, Việt Nam không tuân thủ những điều họ hứa về nhân quyền. Ngược lại, nhân quyền bị đàn áp, nhắm vào những hoạt động trên mạng và các cư dân Internet”.

Riêng về mậu dịch, là việc chuyên môn của Ðại Sứ Kirk, Dân Biểu Sanchez nói bà nêu vấn đề sở hữu trí tuệ, nạn làm hàng nhái, và những vụ buôn người mà được ngân hàng tại Việt Nam tài trợ.

Ðại Sứ Kirk cho biết ông rất quan tâm tới sự minh bạch của hệ thống luật pháp và các vấn đề quyền lợi của người lao động. Ông nói ông cũng quan tâm tới thương mại trên mạng và với vấn đề Việt Nam đặt tường lửa gây khó khăn cho các trang mạng.

Tuy nhiên, vì Việt Nam cứ hứa cải thiện nhân quyền rồi sau đó không thực hiện, Dân Biểu Sanchez đặt vấn đề với Ðại Sứ Kirk là nên bắt Việt Nam thực hiện trước rồi mới ký. Tuy Ðại Sứ Kirk không trả lời rõ ràng về đề nghị này, nhưng theo bà Sanchez, “Chúng ta vẫn có thể đặt điều kiện vào các hiệp định mậu dịch để các nước sẽ gặp khó khăn nếu không thực hiện những điều họ hứa.”

Ðề tài này được nhắc lại một lần thứ nhì trong cuộc điện đàm, khi ký giả Vanessa White báo Viễn Ðông hỏi bà Sanchez nghĩ gì về ý kiến cho rằng càng mậu dịch nhiều thì càng dễ dẫn tới dân chủ.

Bà Sanchez đồng ý có bằng chứng ở một số nơi rằng khi hệ thống kinh tế tư bản càng phát triển thì người dân càng đòi hỏi thêm tự do. Tuy nhiên, bà nói “đối với tôi, trong trường hợp Việt Nam, chúng ta thấy ngược lại, là có sự đàn áp nhân quyền sau PNTR, WTO, Hội Ðồng Bảo An, v.v...”

“Nếu tôi là tổng thống, tôi sẽ đòi hỏi họ cải thiện trước khi ký. Ðó là điều tôi nói với ông Kirk, nhưng câu trả lời của ông không rõ ràng,” bà nói.

Trả lời cơ quan truyền thông Chúa Cứu Thế về những gì Hoa Kỳ có thể làm được khi Việt Nam bắt giữ người đối kháng, Dân Biểu Sanchez cho biết bà và văn phòng bà làm việc trực tiếp với Tòa Ðại Sứ Mỹ tại Việt Nam để vận động cho tự do. “Nhiều khi các nhà ngoại giao của chúng ta đến gặp những người bị bắt, có khi gặp họ ở nhà nếu bị quản thúc tại gia, và có cả trường hợp gặp họ trong tù.”
Dân Biểu Sanchez cũng vận động đưa Việt Nam trở vào danh sách CPC. “Chúng ta có CPC thời Tổng Thống Bush, nhưng rồi khi tới vụ WTO thì Tổng Thống Bush rút tên Việt Nam ra khỏi CPC. Chúng tôi đang vận động Bộ Ngoại Giao và Ngoại Trưởng Clinton để đặt Việt Nam vào lại.”
Ðại Sứ Kirk, đại diện mậu dịch Hoa Kỳ, là cựu thị trưởng Dallas. Chức vụ Ðại diện Mậu dịch Hoa Kỳ là một chức vụ ngang hàng bộ trưởng nhưng không nằm trong nội các.
Vũ Quí Hạo Nhiên/Người Việt 

Nguồn: Người - Việt Online
Le Nguyen (danlambao) - Từ biến động chính trị ở Trung Đông, Bắc Phi còn được gọi là mùa xuân Ả Rập hay cách mạng hoa lài đến diễn biến chính trị tích cực, ngoạn mục của Nga, Miến Điện gần đây đã tác động lên các cá nhân, tổ chức đấu tranh cho dân chủ cả trong lẫn ngoài nước. Có nhiều ý kiến bình luận, phân tích rất phong phú, hữu dụng bên cạnh những lời kêu gọi xuống đường thay đổi chế độ độc tài toàn trị cộng sản Việt Nam khá ấn tượng, giúp hâm nóng bầu nhiệt huyết, thổi bùng ngọn lửa niềm tin và hy vọng trong lòng nhiều người Việt Nam khát khao tự do dân chủ. Tuy thế, nhìn toàn cục diễn biến chính trị trên thế giới, tác động đến tình hình chính trị Việt Nam cho chúng ta thấy đã đủ điều kiện “cần” cho một cuộc cách mạng dân chủ nhưng chưa có điều kiện “đủ” để làm cuộc cách mạng đường phố đánh đổ chế độ độc tài cộng sản Việt Nam.
Điều kiện “cần” cho cuộc cách mạng dân chủ là chúng ta đã có mọi thành phần xã hội phản kháng giai cấp thống trị, không tin vào kẻ cầm quyền lưu manh dối trá, đã nhận diện được bộ mặt phản dân hại nước của đảng cộng sản toàn trị. Từ khối dân oan mọi miền đất nước biểu tình, khiếu kiện dai dẳng ngày càng đông đến lực lượng công nhân khắp cả nước đình công đòi quyền lợi năm sau nhiều hơn năm trước. Từ thanh niên, sinh viên học sinh, văn nghệ sĩ biểu tình chống bành trướng Bắc Kinh đến kiến nghị tập thể của tầng lớp trí thức, lão thành cách mạng đòi dừng khai thác bauxite tây nguyên, ngăn không cho nước ngoài thuê đất rừng đầu nguồn cùng với các biến cố Bát Nhã, Thái Hà, Tam Toà, Cồn Dầu... gần đây nhất là biến cố nông dân vùng dậy chống áp bức bất công ở Cống Rộc, Tiên Lãng, Hải Phòng đã thu hút được hàng ngàn, chục ngàn, trăm ngàn người dân sục sôi phẫn nộ bày tỏ thái độ, phản đối hành động côn đồ gian manh “hèn với giặc ác với dân”của nhà nước cộng sản. 
Điều kiện “đủ” là chúng ta chưa chuẩn bị phối hợp được một cuộc xuống đường quy mô đồng loạt, đồng lúc là yếu tố chính đưa cách mạng bất bạo động lẫn bạo động đến thành công. Đây là thời điểm thuận lợi để các tổ chức đấu tranh, các đảng phái chính trị tái tổ chức, vận động phối hợp tổ chức xuống đường quy mô đồng loạt, với các phương tiện kỹ thuật tổ chức, thông tin liên lạc hiện đại do các thành viên trẻ năng động, dũng cảm, hạt nhân chính của các cuộc cách mạng thay đổi lịch sử cũng như tồn tại và phát triển của xã hội loài người trong quá khứ. Song song với những việc làm nêu trên,chúng ta cũng cần nghĩ đến nhiều kế sách khác, kể cả kế “ĐỐI LẬP CUỘI, TRÁ HÀNG, PHẢN GIÁN.” Muốn cách mạng dân chủ thành công phải chuẩn bị hoàn hảo nhất có thể được, nhất là phải tạo bất ngờ cho đối phương. Thí dụ vào giờ N một ngày khởi phát nào đó, hiệu lệnh xuống đường làm cách mạng đường phố xuất phát từ nơi bí mật trong nhà máy, xí nghiệp hoặc ở nơi được cho là quyền lực tối cao của đảng cộng sản Việt Nam chẳng hạn, có thể lắm chứ, tại sao khả năng đó không thể xảy ra? 
Ngoài ra, việc xuống đường làm cuộc cách mạng dân chủ, vai trò của quân đội rất quan trọng, góp phần không nhỏ trong cuộc lật đổ các chế độ độc tài quân phiệt lẫn độc tài cộng sản ở Trung, Đông Âu thế kỷ trước và Trung Đông, Bắc Phi ở thế kỷ này. Từ tầm nhìn đó, chúng ta cũng cần nên biết các sĩ quan trung, cao cấp của quân đội lẫn công an cộng sản Việt Nam đã được âm thầm đưa đi “tu nghiệp” từ nhiều năm qua, ở các nước dân chủ Mỹ, Úc... và trong quan hệ quốc tế bất cứ động thái nào cũng đều có lý do của nó? Đây là điểm nhấn cần lưu ý ghi nhận, là nhân tố quan trọng, quyết định thành bại khi cuộc cách mạng đường phố xảy ra! 
Riêng các cá nhân, tổ chức đã lộ diện hoặc công khai hoạt động, công khai bày tỏ chính kiến như: Nhóm bác sĩ Nguyễn Đan Quế, nhóm trí thức Đà Lạt, nhóm sỹ phu Bắc Hà... các cá nhân Lê Trần Luật, Nguyễn Bắc Triển, Nguyễn Văn Đài, Phạm Hồng Sơn, Lê Quốc Quân, Nguyễn Khắc Toàn, Lê Thị Công Nhân... cùng một số không ít khuôn mặt mới xuất hiện trong các cuộc biểu tình chống bành trướng Trung Cộng ở hai thành phố lớn Hà Nội, Saigon đã thể hiện phẩm chất đặc biệt quý hiếm rất bản lĩnh, rất thông minh và còn nhiều hoạt động đấu tranh âm thầm khác của các cá nhân, tổ chức cả trong lẫn ngoài nước khá đông, khá đa dạng đủ sức để làm cuộc cách mạng đường phố… Thiễn nghĩ, với chuyển biến của tình hình chính trị thế giới rất thuận lợi cho tiến trình dân chủ hóa Việt nam và với các hạt nhân dân chủ đã có, đã đủ để tổ chức cách mạng đường phố, chỉ cần mỗi cá nhân, tổ chức làm tròn phần vụ của mình sẽ không khó thực hiện kế hoạch cách mạng đường phố để Việt Nam có tự do, dân chủ thật sự? 
Trong lúc chờ thời khắc lịch sử chủ động hành động cách mạng đường phố, tạm gọi là ngày N đến, các cá nhân hoạt động xã hội, hoạt động nhân quyền, các tổ chức đấu tranh dân chủ đã lộ diện hoặc chủ trương công khai hoạt động cần di chuyển càng nhiều càng tốt nhằm tạo khoảng trống cho các cá nhân đấu tranh âm thầm hoạt động tổ chức cơ sở nền tảng. Bên cạnh đó, các tổ chức tôn giáo cần tổ chức hội họp, công bố công khai thường xuyên chương trình hành lễ của tôn giáo mình nhằm thu hút, xé mỏng lực lượng an ninh, làm cho chúng mỏi mệt, đau đầu đối phó với “thực và hư chiêu” điều quan trọng là tránh đối đầu gây tổn thất không cần thiết. Ngày N có thể sẽ là một trong những ngày lễ lớn của nhà nước cộng sản Việt Nam như ngày 30/04; 19/05; 02/09 hoặc ngày Phật Đản, lễ Giáng Sinh, tết Nguyên Đáng chẳng hạn! Đây là những ngày dễ phát động xuống đường nhất và nếu xuống đường với lá cờ đỏ của cộng sản thì nên lật ngược xuống cùng dấu gạch chéo lên ngôi sao vàng cộng với những biểu ngữ có nội dung đòi cơm ăn áo mặc, bình đẳng cho mọi người, đòi quyền yêu nước không yêu chủ nghĩa xã hội hoặc một biểu tượng thống nhất nào đó, phù hợp với thời điểm hành động, thích nghi với tình hình thực tế tại chỗ và hợp lòng dân. 
Ưu điểm của việc công khai thời điểm phát động cuộc cách mạng đường phố là chúng ta ở thế chủ động tiến công gây khó khăn cho chính quyền cộng sản và chúng luôn ở thế bị động phải chống đỡ đến suy kiệt, dù biết trước nhưng vẫn không ngăn được sự sụp đổ bởi chúng không thể đoán được ngày N là ngày nào, ngày nào cũng có thể là ngày N? Lẽ khác, dân chủ là xu thế của thời đại không thể đảo ngược và “thế lực thù địch”của đảng cộng sản ngay thời điểm này đã hiện diện khắp nơi ngày càng đông hơn, nhiều hơn, ở mọi nơi mọi chỗ, ngay chỗ quyền lực nhất là trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của đảng cộng sản Việt Nam cũng không còn là an toàn khu, không còn là nơi bất khả xâm phạm. Ở đó, cũng có khả năng là thế lực thù địch, âm mưu phá hoại đảng cộng sản, lật đổ chế độ từ bên trong đã bén rễ và hiện tượng này đã manh nha từ lâu, giờ là lúc chờ cơ hội bùng phát. Thế giới chuyển biến rất nhanh, thời cơ thay đổi đã đến rất gần, cách mạng đường phố sẽ thành công, Việt Nam nhất định sẽ trở thành một nước dân chủ thật sự, nhanh hay chậm là do toàn dân Việt Nam quyết định, trong đó không thiếu sự đóng góp tài năng lẫn trí tuệ của những cá nhân ưu tú của dân tộc Việt Nam, kể cả những cá nhân đã từng là Quốc Gia hay Cộng Sản. 
Tuy nhiên, theo lẽ thường để cho bộ máy vận hành tốt, tương đối hoàn hảo thì giải pháp tối ưu là phải thường xuyên bảo trì, phát hiện điều chỉnh một số sai sót kỹ thuật của hệ thống vận hành để bộ máy luôn hiệu quả. Do đó, để cách mạng đường phố đi đến thành công cũng không là ngoại lệ phải nhìn thẳng vào trở ngại, tháo gỡ vướng mắc thuộc lỗi nhận thức của những cá nhân đấu tranh thừa dũng cảm nhưng có cái đầu thiếu tỉnh táo dễ nổi nóng, vô tình lọt vào thế trận của đối thủ bày ra nên cứ loay hoay trong vũng lầy lý luận, cứ chạy theo đuôi đánh vào những mục tiêu ảo, tệ hại hơn là trở thành kẻ đánh thuê không công cho địch thủ. Chẳng hạn như có một số nhỏ khi có ai đó đề cập đến đám tay sai, quan chức của đảng cộng sản thường bị “đòi hỏi” phải sử dụng những ngôn ngữ hằn học, máu lửa hay những đảng viên lên tiếng phản đối chế độ bị “yêu cầu” phải công bố vứt thẻ đảng viên mới được công nhận là dũng cảm, là phản kháng thật hoặc những ai “tiếp cận”với guồng máy độc tài toàn trị cộng sản, không cần biết lý do đều bị ném đá không thương tiếc! Nhìn chung, tất cả đều do lỗi nhận thức thiếu sâu rộng mà ra. 
Xin hỏi, có cần phải tỏ thái độ, hành động như thế không? Nên biết rằng mọi thứ đều có ưu khuyết, có lá mặt lá trái không nên dễ dãi với chính mình để thay vì đấu tranh chống độc tài toàn trị lại vô tình trở thành người thi hành chính sách của độc tài toàn trị! Thiễn nghĩ mọi người đấu tranh trong chúng ta cần phải tận dụng tư duy, nâng cao nhận thức để hành động đấu tranh cho dân chủ hiệu quả hơn, thông minh hơn làm cho đối thủ phải dè chừng, phải mất ăn mất ngũ giữa “hư và thực”bởi tiến trình dân chủ, đấu tranh cho dân chủ với kẻ thù cộng sản gian manh, hung hiểm thừa độc ác nên không thể sử dụng những phương thức đấu tranh chính trị phổ cập, thông thường như trong các nước dân chủ văn minh tiên tiến mà phải bám sát tình hình chính trị thực tiễn Việt Nam để có những hành động thiết thực thích hợp với khả năng của mỗi người nhưng không kém phần hiệu quả cho dân chủ Việt Nam, nhất là phải thật nhạy bén để tránh trường hợp“quân ta đánh quân mình”vì quân ta hiện diện khắp nơi thoáng ẩn thoáng hiện, kể cả dưới các vỏ bọc đối lập cuội, trá hàng và phản gián. 
Le Nguyen
Nguồn: danlambaovn.blogspot.com
(Ảnh sưu tầm trên mạng)
Vô vọng 
Dân luận - Mở Miệng - Trông mong dảng tự thay dổi là diều vô vọng
Mở Miệng
Tác giả gửi đến Dân Luận dưới dạng phản hồi. Tựa đề do BBT Dân Luận đặt

Bất đồng chính kiến

Triều đình mhà sản nói “ở nước Vệ không có ai bị bỏ tù vì bất đồng chính kiến” là đúng đấy chứ!

Từ khi thực dân Pháp bị đánh bại ở miền Bắc và sau đó là chính quyền Cộng Hòa sụp đổ ở miền Nam, dân nước Vệ làm gì còn “chính kiến” để mà bất đồng! Lâu rồi, nước Vệ chỉ tuyền là nhân dân đã “giác ngộ cách mạng”, một lòng một dạ tin yêu đảng, mang ơn đảng, luôn luôn ủng hộ đảng, luôn luôn nói theo ý đảng, luôn luôn làm theo ý đảng!

“Chính kiến” ở nước Vệ đã chết từ lâu, làm sao còn có “bất đồng”?

Mù quáng trước sự thật ư? Leo lẻo dối trá ư? Đảng nhà sản không quan tâm lắm đến sự khác biệt giữa sự thật và dối trá (và thật tình quan sát kỹ sẽ thấy dân nước Vệ cũng không mấy ai quan tâm lắm tới chuyện này!). Đảng nhà sản không coi dối trá là điều nguy hại. Ngược lại đảng thường xuyên chủ trương dối trá để đạt mục tiêu!

Lê Văn Tám là một sự bịa đặt trắng trợn nhưng có sao đâu! Vẫn nghiễm nhiên đi vào sách giáo khoa để “giáo dục” biết bao thế hệ! Còn có bao nhiêu trường hợp như vậy nữa?

Cán bộ từ cấp tỉnh đến trung ương đến cái gọi là bộ chính trị có ai chưa từng một lần viết báo cáo láo? Chưa từng một lần nhắm mắt làm ngơ để “đồng chí” của mình bịa chuyện báo cáo láo? Chưa từng một lần ngậm miệng làm ngơ để “tổ chức” bịa ra những sai lầm khi muốn thanh trừng, hạ bệ một ai đó?

Nếu các văn bản của đảng được cho phép xem xét một cách công khai và khách quan hầu như sẽ không có một “đồng chí” nào chưa một lần dính vào dối trá!

Coi thường sự thật vốn là văn hóa của đảng từ bao nhiêu năm nay, không có gì lạ. Điều đáng nói và nó đã để lại những hệ lụy nhãn tiền.

Góp ý, kiến nghị và liệu pháp “Tay nhúng chàm”

Thời gian gần đây rộ lên hiện tượng gửi góp ý, kiến nghị cho đảng. Người dân thường, khi thấy kiến nghị của các bậc “lão thành cách mạng”, của các “nguyên” cán bộ cao cấp, thường rất hởi lòng hởi dạ. Bởi vì kiến nghị của các vị này có trọng lượng hơn nhiều so với dân đen. Thế nhưng trên thực tế ý kiến của các “lão thành”, các “nguyên” này lại không có mấy hiệu quả. (Xin lưu ý, trong văn khố của đảng có lưu trữ đầy đủ “hồ sơ – báo cáo” của tất cả đảng viên, khi cần đảng có thể lôi ra bất cứ lúc nào)

Kiến nghị thường lấy sự thật trong xã hội làm căn bản, đó là: cán bộ tha hóa, luật pháp nhũng nhiễu, xã hội suy đồi. Thế nhưng như phần trên đã trình bày, trong sưốt thời gian tồn tại đảng, trong đó có những vị hiện đang tới tấp gửi kiến nghị, không mấy tôn trọng sự thật. Vì vậy, khi bị chất vấn với những bằng chứng là hiện thực xã hội những người đương quyền hiện nay sẽ dễ dàng đối phó bằng lập luận: “…khi các anh nắm quyền các anh có hoàn toàn tôn trọng sự thật không? Nắm quyền các anh đâu có mấy tôn trọng sự thật phải không? Thế bây giờ các anh yêu cầu chúng tôi phải tôn trọng sự thật nghĩa là thế nào?…”

Đáng tiếc lập luận này khá hợp lý!

Kiến nghị của các “nguyên”, các “lão thành cách mạng” có thể mang đến cho người dân đen một chút cảm xúc hồ hởi nhưng chắc chắn sẽ không mang đến hiệu quả tích cực đáng kể nào!
Có thể nào đảng tự thay đổi?

Đã có những phân tích dùng các sự kiện như Mùa Xuân Ả Rập, Miến Điện, chỉnh đốn đảng…v.v..., để tiên đoán là triều đình nhà sản sẽ tự thay đổi theo hướng nhân bản hơn! Những phân tích này thiếu ít nhất hai yếu tố quan trọng: đồng tiền và tham vọng bám chặt quyền lực của những tay đang cầm trịch đảng.

Nếu đảng có thể tự chỉnh đốn, việc đó 10 - 15 năm trước dễ thực hiện hơn nhiều. Theo nhận xét từ chính bên trong đảng, trung ương lúc đó có “đạo đức” hơn nhiều so với trung ương lúc này. Sự liên kết giữa quyền lực và đồng tiền lúc đó nếu có vẫn mong manh hơn lúc này nhiều. “Đường dây” làm ăn, lợi lộc thu được của một cán bộ TW lúc này chắc chắn cắm sâu và to lớn hơn nhiều so với một cán bộ tương đương 15 năm trước. Làm sao một người đã bỏ số tiền lớn để mua “ghế” có thể từ bỏ cái “ghế” đó trước khi thu hồi vốn? Vào lúc này đảng và đô la đã quyện chặt vào nhau, đô la thì không bao giờ mất giá!

Động thái phong tướng hàng loạt cho công an và quân đội là động thái kinh điển của các tay độc tài khét tiếng. Hít-le đã phong Nguyên Soái cho hàng loạt bại tướng cuả y nhằm mục đích giữ sự trung thành! Động thái phong tướng hàng loạt tại nước Vệ gần đây cho thấy những tay cầm trịch của đảng đang quyết tâm bám chặt quyền lực.

Đảng tự thay đổi là điều vô vọng. 
Đọc thêm:

Suy nghĩ về đổi mới đảng
Nguồn: danluan.org
Những người dân bị mất đất kéo lên tỉnh biểu tình nhằm
phản đối lại việc cưỡng chế. Ảnh (TTX Vàng Anh)
RFA - Người bị đánh chết lần này tên là Nguyễn Văn Hùng, 50 tuổi, ngụ tại xóm 2 thôn Quyết Tiến, xã Tiền Phong, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Ông Hùng vừa tắt thở lúc 4 giờ sáng ngày 26 tháng 1, tức mùng 4 Tết âm lịch sau khoảng hơn 3 tuần cầm cự. Vợ ông Hùng, bà Thân Thị Bình cho biết tình trạng của ông trước khi chết:

“Ông bị đánh từ hôm chính quyền đến cưỡng chế đất. Từ đó ông không ăn được. Ngủ thì ít mà không ăn được, thỉnh thoảng lại ho ra máu, đi tiểu ra máu. Ông đi lại được nhưng ông đi xa được”.

Những người dân ở xã Tiền Phong, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang cho biết, ông Hùng bị cảnh sát đánh trong một vụ cưỡng chế đất đai ở địa phương cách đây gần một tháng.

Một người dân địa phương nói với đài RFA:

“Tôi cũng là một trong những người bị cưỡng chế. Lúc khoảng 6 giờ 30 sáng hôm 23 tháng 12 năm ngoái thì lực lượng cưỡng chế đến và lấy đất. Chúng tôi đem cờ và ảnh Bác Hồ ra để có tính biểu tượng và hy vọng là họ sẽ sợ. Nhưng họ không sợ. Họ dồn hết dân vào, ai chống cự thì bị đánh. Họ xé ảnh, xé cờ. Họ thả chó săn đuổi dân. Vừa công an, vừa dân quân tự vệ…” 

 Video: TTXVA
 
Đợt cưỡng chế đầu tiên vào ngày 23 tháng 12 năm 2011. Ngày 10 tháng 1 vừa qua là đợt cưỡng chế đất lần hai ở đây.

Theo bà con nơi đây, chính quyền không thực hiện họp dân, cũng không đọc lệnh cưỡng chế trong hai lần cưỡng chế trên. Hầu hết bà con nơi đây sống bằng nghề nông hoặc làm thuê nên không đồng ý với việc cưỡng chế. Theo bà Bình, từ 10 ngày nay, tất cả mấy trăm hộ bị mất đất trong thôn ngày nào cũng thay nhau kéo lên tỉnh biểu tình nhằm phản đối lại việc cưỡng chế.

Ông Nguyễn Văn Hùng và bà Thân Thị Bình có ba người con, trong đó có một người đang nhập ngũ, nhưng chỉ có khoảng 4 sào đất để canh tác. Cho đến đợt cưỡng chế lần hai vừa qua, gia đình đã bị lấy 1 sào đất.

Trong lần cưỡng chế đầu tiên, xót của, ông Hùng xông ra ngăn cản chính quyền và bị đánh. Người dân nơi đây cho biết:

“Anh Hùng đã nhào ra giữ ruộng thì bị nhiều người vào đánh đập đến hộc máu mồm. Tất cả chúng tôi đều trông thấy”.

Theo nguồn tin RFA nhận được, ngoài ông Hùng, còn có 3 người khác nữa bị đánh, trong số họ có hai người trên 60 tuổi, cũng là dân bị mất đất trong đợt cưỡng chế.

Sau khi bị đánh, vì gia đình nghèo túng nên ông Hùng không được đưa đi bệnh viện và chết tại nhà vào sáng sớm nay. Bà Thân Thị Bình cho biết:


“Gia đình nghèo túng, lại không có bảo hiểm. Nhà có vài tạ thóc, nếu bán thì không có gì ăn cho nên không đưa ông đi bệnh viện mà mua thuốc dán cho ông”.

Được biết, phía chính quyền đã có trưởng thôn và bí thư xã Tiền Phong đến chia buồn cùng gia đình:

“Họ có đến và chỉ động viên tinh thần thôi chứ cũng không thấy nói giúp đỡ”.

Khi được hỏi chia sẻ của gia đình về việc cưỡng chế cũng như cái chết của ông Hùng, bà Bình cho biết:

“Gia đình rất bức xúc nhưng không kêu được vì thấp cổ bé họng. Chỉ biết nhờ các nhà báo và pháp luật mà thôi”.

Dự kiến, ông Hùng sẽ được chôn cất vào ngày mai.

Cũng cần nói thêm, theo báo Dân Việt, huyện Yên Dũng (Bắc Giang) đã có hàng trăm ha đất giải phóng mặt bằng 10 năm nay nhưng đều để hoang và không xây dựng công trình mới. Tuy nhiên, “vừa qua UBND tỉnh vẫn quyết định thu hồi thêm hàng chục ha đất hai vụ lúa để xây dựng nhà máy sản xuất gạch”, theo tờ báo này.

Dự án này của công ty Thạch Bàn, đã được cấp giấy phép chứng nhận đần tư. Và UBND huyện Yên Dũng đã 2 lần tổ chức cưỡng chế thu hồi đất cho dự án này.

Trao đổi với phóng viên báo Dân Việt, ông Nguyễn Thế Cường – Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn Thạch Bàn cho biết vì đất đã giải phóng tuy bị bỏ hoang nhưng giá cao nên phải lấy đất trồng lúa của bà con nơi đây để “giá thành rẻ hơn”. Ông này cũng cho biết, Tỉnh cũng đã đồng ý đề xuất này của công ty Thạch Bàn.

Nguồn: RFA
Công an TP Thanh Hóa dùng lưới đánh cá tóm gọn “quái xế”
(Ảnh: tuoitre.vn)
VOV - Bản tin trên trang Asia One ngày 26/1 cho hay công an giao thông Thanh Hóa tiếp tục sử dụng biện pháp gây tranh cãi là quăng lưới đánh cá để vây bắt các tay đua xe gắn máy hoặc người điều khiển xe quá tốc độ trong dịp Tết nguyên đán.

Giới hữu trách nói biện pháp này an toàn cho cả người lưu thông lẫn người vi phạm giữa lúc công luận có nhiều ý kiến bất bình phản đối.

Nhiều người cho rằng dùng biện pháp nguy hiểm cho tính mạng của người điều khiển xe gắn máy với mục đích nhằm bảo đảm an toàn giao thông là một việc làm trớ trêu.

Tháng 11 năm ngoái, công an Thanh Hóa đã cho tạm ngưng biện pháp quăng lưới vào đuôi xe chặn bắt người vi phạm giao thông trước phản ứng mạnh mẽ từ dư luận.

Biện pháp này được bắt đầu áp dụng từ ngày 28/10 và công an cho biết chưa có báo cáo gây thương tích hay tử vong cho những người bị giăng lưới.

Theo thống kê của Bộ Công an, số người bị thương và tử vong vì tai nạn giao thông trong 3 ngày Tết năm nay đã giảm bớt với cùng thời gian năm ngoái.

Tổng hợp: Motoring.asiaone.come, Thanhniennews 
 
Đọc thêm:

Có nên dùng lưới đánh cá bắt xe đua?
 
Nguồn: VOV Online
Tàu ngầm tối tân Oyashio của Nhật đến Trân Châu Cảng tham
dự một cuộc tập trận chung với Hải Quân Mỹ. Tàu Oyashio
cùng một hạng với tàu ngầm Makishio mà bộ trưởng Quốc
Phòng Việt Nam xuống quan sát hồi tháng 10, 2011.
(Hình: Wikipedia)
Trung Quốc muốn kiểm soát một nửa Thái Bình Dương

Nam Phương(NV) - TOKYO - Trong việc huấn luyện gấp rút nhân sự để bắt đầu sử dụng đội tàu ngầm được Nga chuyển giao từ năm 2014, Việt Nam nhờ cả Nhật Bản.

Trong một bài viết về tranh chấp biển Ðông, báo Yomiuri Shimbun ở Nhật tiết lộ là Bộ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh đã từng xuống thăm tàu ngầm tối tân của Nhật cũng như đề nghị Nhật giúp luấn luyện nhân sự về sử dụng và tác chiến tàu ngầm.

Ông Phùng Quang Thanh dẫn một phái đoàn quân sự cao cấp của Việt Nam đến nước Nhật thăm viếng từ 23 đến 28 tháng 10, 2011 sau khi đã tháp tùng phái đoàn Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đến Bắc Kinh.

Theo báo Yomiuri, ông Phùng Quang Thanh đã đề nghị chính phủ Nhật cho phép ông xuống quan sát bên trong một tàu ngầm. Sau đó ông Thanh đã được đưa xuống tầu ngầm Makishio tại một căn cứ thuộc tỉnh Kure, quận Hiroshima.

Ðây là chiếc tàu ngầm tối tân của Nhật, trọng tải 2,750 tấn, dài 82 mét. Nó di chuyển rất êm bên dưới mặt nước và có khả năng “tàng hình.”

Theo nguồn tin, bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam “rất chú ý đến bên trong của tàu ngầm Makishio. Lực Lượng Phòng Vệ Nhật Bản rất hiếm hoi cho lãnh đạo của các nước không phải là đồng minh quân sự quan sát phía bên trong của chiếc tàu vốn đầy những bí mật.”

Sau chuyến thăm của ông Phùng Quang Thanh, Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam Vũ Văn Hiến cũng đến nước Nhật vào tháng 12 sau đó.

Những người đứng đầu quân sự cấp cao của Việt Nam liên tiếp đến Nhật vì Việt Nam đang xây dựng lực lượng tàu ngầm. Việt Nam ký hợp đồng mua của Nga 6 tầu ngầm hạng Kilo dự trù nhận chiếc đầu tiên năm 2014 và những năm sau mỗi năm một chiếc.

Tàu ngầm hạng Kilo chạy điện-Diesel được coi là loại tầm ngầm chạy khá êm lặng dưới mặt nước, là một võ khí chiến lược. Nó có thể là võ khí tấn công, tiêu diệt tàu chiến của địch cũng như cản trở vận chuyển hàng hóa trên biển. Nó còn có vai trò tình báo, cản trở sự hoạt động của hải quân địch.

* Sắm tàu ngầm để đối phó với Trung Quốc

Giới chuyên gia quân sự tin rằng Việt Nam dùng hạm đội tàu ngầm để đối phó trong vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo với Trung Quốc. Nước Nga bán tàu ngầm cho Việt Nam thì chắc chắn giúp Việt Nam huấn luyện nhân sự sử dụng, nhưng Việt Nam vẫn còn nhờ cả Ấn Ðộ và Nhật giúp huấn luyện. Việt Nam và Nhật cũng đã ký bản ghi nhớ về hợp tác chiến lược.

Tháng 10 năm ngoái, tin tức cho hay chính phủ Nhật có ý định nới lỏng quy định cấm xuất cảng võ khí của nước này có từ năm 1967 dưới thời Thủ Tướng Eisaku Sato, gồm 3 điểm chính yếu: 1. Không xuất cảng võ khí tới các nước cộng sản; 2. Không xuất cảng tới các nước đang hay có thể dính vào các tranh chấp quốc tế; 3. Không bán cho các nước bị Liên Hiệp Quốc cấm vận.

Bán các loại võ khí sát thương, đặc biệt là tàu ngầm, cho Việt Nam còn là chuyện xa vời, nhưng mối quan hệ chiến lược giữa hai nước có vẻ phát triển nhanh chóng. Cả hai nước cùng có một mối quan tâm chung: sự trỗi dậy và chủ trương bá quyền nước lớn của Trung Quốc.

Tranh chấp chủ quyền biển đảo khu vực Senkaku (Trung Quốc gọi là Ðiếu Ngư Ðài) làm nhức đầu chính phủ Tokyo không ít. Việt Nam và Trung Quốc tranh chấp các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tồi tệ hơn, Bắc Kinh còn tuyên bố đến 80% Biển Ðông là của Trung Quốc.

Tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam, ngay trên vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam cũng bị tàu Trung Quốc ngăn cản hồi giữa năm ngoái. Nhiều tàu đánh cá của Việt Nam hoặc bị đâm chìm, hoặc bị kéo về đảo Phú Lâm (trong quần đảo Hoàng Sa) đòi tiền chuộc. Năm nay, mới đây, Trung Quốc loan báo sẽ cấm đánh cá trên biển Ðông từ giữa tháng 6 đến ngày 1 tháng 8, 2012.

Trong sự hợp tác đối phó với sự gia tăng bành trướng của Trung Quốc, Việt Nam và Nhật đã ký bản ghi nhớ cổ võ các trao đổi về quốc phòng an ninh. Có một hạm đội tàu ngầm sẽ giúp cho Việt Nam đối phó với chiến lược mà Trung Quốc sử dụng để ngăn cản Hải Quân Mỹ tiếp cận và can thiệp ở vùng biển sát với Trung Quốc.

* Trung Quốc muốn kiểm soát một nửa Thái Bình Dương?


Hiện nay, Hải Quân Trung Quốc có một hạm đội tàu ngầm lên hơn 70 chiếc trong đó có cả một số tàu ngầm nguyên tử lớp Tấn (Jin-class) trang bị hỏa tiễn tầm xa tới 8,000km. Những tàu ngầm này được nghe nói đóng ở căn cứ Tam Á trên đảo Hải Nam, căn cứ tàu ngầm lớn nhất của Trung Quốc.

Báo chí Hongkong từng tiết lộ Bắc Kinh có tham vọng đóng thêm 30 tàu ngầm tối tân nữa từ nay đến năm 2020. Ðiều này cho người ta cảm tưởng Bắc Kinh, nền kinh tế lớn thứ nhì thế giới, rất nghiêm chỉnh với ý đồ muốn chia đôi Thái Bình Dương với Mỹ để bá chủ. Một nửa do Mỹ kiểm soát lấy Hawaii làm giới hạn và nửa kia do Bắc Kinh làm trùm.

Một viên chức hải quân cao cấp của Bắc Kinh đưa đề nghị này cho tư lệnh Mỹ ở Thái Bình Dương hồi năm 2007 như một “đề nghị riêng.”

Nếu như vậy, đó là một thử thách nghiêm trọng đối với Hoa Kỳ và đi ngược lại chủ trương tự do hải hành ở mọi nơi trên các vùng biển quốc tế.

Bản tường trình về an ninh quốc phòng của chính phủ Obama phổ biến ngày 5 tháng 1, 2012 viết rằng “Sự xuất hiện của Trung Quốc như một cường quốc ở khu vực có tiềm năng ảnh hưởng đến nền kinh tế và an ninh Mỹ trên nhiều mặt.”

Bản phúc trình nói Hoa Kỳ sẽ từ bỏ chiến lược quy ước để chuẩn bị cho hai cuộc chiến lớn cùng một lúc ở hai khu vực, theo đó “sẽ tái cân bằng lực lượng về phía Á Châu-Thái Bình Dương.”

Ðội lực lượng tàu ngầm của Mỹ, mạnh nhất thế giới, hướng về phía Tây Thái Bình Dương. Hoa Thịnh Ðốn dự trù đồn trú 60% lực lượng hàng không mẫu hạm và tàu ngầm tại khu vực Á Châu-Thái Bình Dương. Tàu ngầm tấn công sẽ được dùng để săn địch cũng như bảo vệ các hàng không mẫu hạm chống lại các cuộc tấn công bất ngờ của tàu ngầm Trung Quốc.

Theo một bản phúc trình của Cục Nghiên Cứu của Quốc Hội Hoa Kỳ, Hải Quân Mỹ đã đồn trú 3 tàu ngầm nguyên tử ở khu vực gần đảo Guam. Bản phúc trình cũng nói 3 tàu ngầm cùng loại và và 2 tàu ngầm trang bị hỏa tiễn tầm xa cũng đóng tại các vùng biển phía Tây nước Mỹ.

Có dấu hiệu như một “trò chơi vĩ đại” trong thế kỷ 21 đã bắt đầu giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc ở phía Tây Thái Bình Dương.

Với Việt Nam làm mắt xích trong mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và các nước đồng minh của họ, tuy lỏng lẻo nhưng bao quát đang hình thành chống lại Trung Quốc. Ở phía Bắc Thái Bình Dương, trong khi đó, các tàu ngầm nguyên tử của Nga cũng đang ngó chừng xem Mỹ và Trung Quốc đang làm gì.

Khi đến Hà Nội thăm viếng từ 21 đến 23 tháng 12, 2011, Phó Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, người dự trù sẽ lên ghế chủ tịch từ cuối năm nay, từng đưa ra lời cảnh cáo với các lãnh tụ đảng và nhà nước CSVN là đừng có dựa vào Mỹ để tranh chấp biển Ðông, theo sự tiết lộ của hãng tin Nhật Kyodo news ngày 21 tháng 1, 2012. (NP)
 
Nam Phương/Người Việt 

Nguồn: Người Việt Online
Gia đình vợ anh Vươn tại Hà Nội. (Ảnh: FB 'PC')
Nhà Văn Nguyễn Quang Vinh - Con đường anh Vươn tự đầu tư, xây dựng, đổ bê tông vào trang trại nhà mình, chỉ là con đường thôi cũng có thể thấy sức lực, tiền của gia đình anh 20 năm qua bỏ ra cải tạo vùng bãi bồi hoang sơ ven biển như thế nào

Chị Thương nói, mấy ngày nay ở lều, lạnh lắm anh ạ.

Tội mấy đứa còn nhỏ. Đêm thì gió mạnh, rét lắm. Người lớn nằm vòng ngoài, cho mấy đứa nhỏ nằm giữa. Gần sáng lạnh quá phải đốt lửa, chúng em chẳng ngủ được. Nhưng khổ thế này chứ khổ nữa chúng em vẫn quyết tâm sống ở đây, ăn ngủ ở đây, đất của mình, không đi đâu hết.
(Ảnh: Blog Cu Vinh)

Hôm qua chúng em đến gặp một anh từng bị giam cùng phòng với anh Vươn, anh Quý.

Anh ấy kể chuyện trong phòng giam cho chúng em nghe.

Không biết thực hư thế nào, nhưng mà khi mới vào trại giam chồng của chúng em bị đánh anh ạ.

Ăn uống thì anh ấy nói đồ ăn như cho chó ăn, chúng em xót lắm.

An Vươn, anh Quý rất mệt mỏi, rất chán, nói chung là chúng em không yên tâm chút nào hết.

Sao lại giam anh Vươn, anh Quý vào chung phòng với một lũ tội phạm ngoài xã hội? Thế là họ coi anh Vươn, anh Quý như côn đồ rồi. Buồn anh ạ.

Xin thăm gặp không được.

Con cái thì ngày nào cũng hỏi bố ở đâu, bố sao rồi.
BÀN THỜ TỔ TIÊN TẠI LỀU CỦA GIA ĐÌNH ANH VƯƠN
HÔM NAY CÓ THÊM QUẢ DƯA HẤ.(Ảnh: Blog Cu Vinh)

Đang yên đang lành, nhà cao cửa rộng, cuộc sống ổn định, giờ tan nát thế này rồi anh ạ.

Từ chỗ lều chúng em ở, vào tới làng khoảng hơn 2 cây số. Ban ngày không sao, ban đêm heo hút lắm, không điện, không nước, không gì hết. Mọi thứ bị phá, bị đập nát hết rồi.

Sao họ nói họ phá nhà chúng em là phá nhầm mà họ không màng gì tới việc đền bù, hoặc ít ra thì cũng phải ra ngó xem chúng em sống thế nào chứ. Sao ác thế hả anh?

Chúng em bây giờ toàn đàn bà, trẻ con, người già, quấn lấy nhau trong giá rét để đòi lẽ công bằng thôi anh ạ.
Bạn bè lũ trẻ muốn ra thăm lắm, nhưng sợ, người lớn cũng sợ, không ai dám ra thăm. Họ sợ bị liên quan, sợ bị trả thù.

Hôm nay chúng em lên Hà Nội. Các bác, các chú nhắn chúng em lên Hà Nội để giúp chung em đòi lẽ công bằng.

Chúng em cám động trước tấm lòng của các bác, các chú, nhưng hai chị em lên xe, ngoảnh lại căn lều, thấy mấy đứa trẻ đứng trong mưa rét tiễn mẹ đi mà xót lắm anh ạ.

Công bằng không biết đòi tới đâu, nhưng cả nhà chúng em tan nát hết.

Chúng em đi anh nhé, có gì chúng em sẽ thông tin.

Đây là bức ảnh cưới của vợ chồng anh Đoàn Văn Vươn trước nhà thờ Súy Nẻo, tại quê anh ấy. Bức ảnh bị cháy sém trong vụ cưỡng chế vừa qua.
(Ảnh: Blog Cu Vinh)
__________________

Nhật ký Trưởng thôn Khoai Lang
Nguồn: Blog Cu Vinh
(Ảnh: chungta.com)
Tamviet.edu.vn - Chuyện kể về các loài sâu, chúng đang sống một cuộc sống bình dị giản đơn thì bỗng một hôm xôn xao cả thế giới loài sâu bởi một ý kiến cho rằng "trên đời này có một thứ tên là âm thanh và hình ảnh". Đó là một thông tin hoàn toàn mới, chưa hề có trong thế giới của sâu. Hội đồng bô lão, các nhà khoa học sâu họp bàn lại với nhau để xác nhận thông tin này. Tất cả những nhân vật quan trọng được tập hợp lại trong hội trường là một hốc cây cổ thụ to. "À, âm thanh à, để xem nào", các cụ sâu, nhà khoa học sâu lần mò một lúc không thấy gì chỉ thấy thô thô, ráp ráp, trơn trơn, nhẵn nhẵn, chẳng có cái gì là âm thanh ở đây cả. Vô lý. Thế còn hình ảnh thì sao, các cụ sâu, nhà khoa học sâu lại tiếp tục lần mò và cũng chỉ thấy thô, ráp, sần sùi nhẵn nhụi chứ không thấy cái gì là hình ảnh ở đây hết. Vô lý. Vậy là không có âm thanh và hình ảnh gì ở trên đời này hết.


Nhưng thế giới của chúng ta hoàn toàn có những thứ được gọi là hình ảnh được biết thông qua thị giác và những thứ được gọi là âm thanh được biết thông qua thính giác. Loài sâu chỉ có một giác quan duy nhất đó là xúc giác, chúng không thể nhìn cũng không thể nghe, chính vì vậy trong câu chuyện ở trên, thế giới loài sâu vội kết luận rằng không có âm thanh và hình ảnh ở trên đời.

Ta có khi nào cũng có những kết luận về thế giới hay về chính bản thân mình như những loài sâu.

Một chú sâu người đen sì đầy lông nhìn một chú sư tử và đau khổ, chú thắc mắc sao ta không to khỏe như vậy, sao ta không mạnh mẽ và đẹp đẽ như thế, ta chẳng có gì, bé nhỏ và xấu xí. Chú tự ti và cho rằng mình vô sản. Ta có cho rằng những chú sâu đó kém hơn sư tử, chúng không có gì để tự hào về mình.

Còn bản thân chính chúng ta thì sao, ta đang tự tin về mình, hay đang tự ti. Nếu được hỏi "Ta hãy nói về bản thân mình (những đặc điểm, những thế mạnh, điểm yếu)", ta sẽ nói điều gì? Tôi là một người nhút nhát, giao tiếp kém, tôi chưa thành công và có nhiều tật xấu…Hay tôi là người mạnh mẽ, ham muốn thành công, năng động, nhiệt tình…

Nếu ta còn chưa tự tin vào bản thân, còn coi mình là những con sâu xấu xí thì hãy tiếp tục chuyến hành trình.

1.1Khám phá những tiềm năng

A,Tiềm năng trong thuyết trình


Có hai phần làm nên hiệu quả truyền đạt của một thông điệp từ người diễn giả (người nói) tới thính giả (người nghe) đó là ngôn từ và phi ngôn từ. Nhìn vào bảng bên cạnh ta sẽ rõ hơn phần nào thuộc về ngôn từ và phần nào thuộc về phi ngôn từ. 


Hữu thanh

Vô thanh
Phi ngôn từ
Giọng nói (chất giọng, âm lượng, độ cao…), tiếng thở dài, kêu la

Điệu bộ, dáng vẻ, trang phục, nét mặt, ánh mắt, di chuyển, mùi…
Ngôn từ
Từ nói

Từ viết



Trong thuyết trình, hiệu quả mà ngôn từ mang lại chiếm 7% còn 93% nằm ở phi ngôn từ. Ta có thể dễ dàng nhận ra điều này trong cuộc sống khi ta nói ra một điều gì đó. Cùng là từ "Lại đây" chẳng hạn, nếu nói giọng nhẹ nhàng thì người nghe sẽ cảm nhận rất khác với một từ lại đây được nói bằng giọng gay gắt và quát tháo. Đặc biệt, khi có thêm hình ảnh cho từ "lại đây" như ta cầm một tấm ván, mặt đanh lại giận giữ và hét lớn "Lại đây" thì nhất định người tiếp nhận sẽ có một cảm nhận hoàn toàn khác. Như vậy, với cùng một ngôn từ khi ta thay đổi giọng nói và hình ảnh tức thay đổi phần phi ngôn từ trong việc truyền đạt nó thì tạo ra những hiệu quả khác nhau đối với người nghe khi tiếp nhận thông điệp đó. Cũng như vậy với cùng một bài hát, người ta có thể trả rất nhiều tiền để nghe trực tiếp ca sĩ hát hơn là ngồi nhà nghe ca sĩ đó hát trên đĩa CD hay chỉ đọc lời bài hát đó trên giấy. Như vậy hiệu quả của thông điệp ta truyền đạt tới người nghe nằm phần nhiều ở phi ngông từ của ta và một phần nhỏ ở ngôn từ, từ ngữ ta nói ra. Lâu nay ta tập trung đầu tư công sức của mình vào phần nào, phần mang lại 7% hiệu quả hay 93% còn lại? Những điều tưởng chừng rất vô lý nhưng ta đang làm điều đó với chính mình. Ta đang đầu tư vào 7% hiệu quả của ngôn từ và bỏ đi 93% hiệu quả của phi ngôn từ mỗi lần ta thuyết trình về một vấn đề gì đó. Ta thường mất hầu hết thời gian của mình để tạo nên những bản word hoàn hảo, những trang chiếu rõ ràng mà không dành thời gian cho việc luyện tập cách trình bày nó ra sao cho thuyết phục và hiệu quả. Có câu nói rằng "Vấn đề không phải là nói cái gì mà nói như thế nào", hình ảnh ta thể hiện, giọng nói ta thể hiện chính là cách ta nói như thế nào về bài nói của mình. Và đó chính là tiềm năng rất lớn của ta mà lâu nay ta chưa khai thác. Có câu chuyện kể về một người ông Quang dùng cả đời mình vào việc tìm kho báu, ông Quang đi khắp nơi tìm kho báu. Nhưng khi đã già rồi ông Quang vẫn chưa tìm ra được một kho báu nào, thậm chí một viên kim cương hay thỏi vàng cũng không. Và ông Quang quyết định sẽ quyết tâm tìm đến bao giờ không còn đủ sức nữa mới thôi. Ông Quang đã quyết định bán mảnh đất mình đang ở cho ông Nam để lên đường tiếp tục tìm kho báu. Ông Nam là một người nông dân và hàng ngày cấy trồng trên mảnh đất mà ông mua được. Bỗng một ngày khi ông Nam đang cuốc đất thì thấy lưỡi cuốc của mình chạm phải vật gì rất cứng. Ông Nam đào lên xem thì mới biết đó những thỏi vàng và dưới mảnh đất ông vừa mua được là cả một mỏ vàng lớn. Ông Quang dùng cả đời mình để đi khắp nơi tìm kho báu mà không biết rằng kho báu nằm ngay dưới chân mình. Ta nghĩ gì khi đọc xong câu chuyện này, có người ngay lập tức lấy cuốc và đào đất dưới chân mình lên mong sẽ thấy những thỏi vàng, có người thấy tiếc cho ông Quang rồi thôi, có người mơ ước một ngày mình cũng như ông Nam tự nhiên thấy rất nhiều vàng dưới chân mình như việc mặc một chiếc quần mới và lục túi thấy tiền trong đó vậy. Có người không tin vào câu chuyện đó và chẳng quan tâm xem mỏ vàng đó là có thật hay không. Ta là ai trong số những người đó, ta có tin ta đang có một mỏ vàng như vậy ở trong chính mình nhưng ta lại tìm kiếm điều đó ở những nơi xa xôi khác. Thánh Augustine đã nói "Con người đi khắp nơi để kinh ngạc trước những ngọn núi cao ngất, trước những ngọn sóng thần của biển cả, trước những dòng sông dài nhất, trước sự hùng vĩ của biển khơi, sự đẹp đẽ của những vì tinh tú, mà bỏ qua chính mình không một chút băn khoăn" Trong ta có cả một thế giới ẩn chứa rất nhiều tài sản quí giá. Ngoài tiềm năng trong thuyết trình ta còn rất nhiều những tiềm năng khác mà ta cần phải biết.

B, Tiềm năng trong lắng nghe 

 
Có câu chuyện kể về anh Văn, bị điếc từ nhỏ, anh không thể nghe được người khác nói gì cũng như những âm thanh hàng ngày. Cả nhà rất thương anh Văn và lo chạy chữa khắp nơi để anh khỏi bệnh. Sau bao công sức anh Văn đã bắt đầu nghe được. Anh nghe được mọi âm thanh xung quanh mình từ tiếng xe cộ, tiếng gió, tiếng người khác nói… Anh Văn rất sung sướng và cho rằng mình đã nghe được tất cả mọi âm thanh trên thế giới này. Có một hôm anh xung đột với bố, anh đùng đùng bỏ nhà đi. Mẹ khuyên can, làng xóm nói rất nhiều nhưng anh không nghe vẫn quyết định ra đi. Ai cũng lắc đầu "Thằng Văn này khỏi điếc nhưng chưa hết bệnh điếc". Anh Văn mặc dù đã nghe được bình thường như bao người khác nhưng vẫn bị nói là "mắc bệnh điếc", cũng như nhiều khi bố mẹ nói với mình rằng "Bố mẹ nói con từ tai này sang tai kia vậy như nước đổ lá khoai ấy", có tai đã chắc là biết nghe hay chưa? Và mỗi chúng ta có chắc mình đã tận dụng hết tiềm năng nghe của mình, khai thác hết thế mạnh mà lắng nghe có thể mang lại cho mình hay chưa? Vì tự nhiên sinh ra mỗi chúng ta có hai tai, lúc nào cũng mở và làm đúng một nhiệm vụ là nghe, không phải để nghe trước quên sau, nghe cũng bằng không như vậy. Ta cùng nhắm mắt và thực tập bài tập nhỏ này: Ta nhắm mắt lại và thả lỏng người nghe trong vòng 30 giây. Sau 30 giây đó ta nghe thấy những gì. Chắc hẳn ta nghe thấy rất nhiều âm thanh khác nhau như tiếng xe cộ trên đường, tiếng tivi, tiếng nhạc, tiếng nói chuyện của hàng xóm, tiếng rửa bát của mẹ… Khi đã liệt kê những âm thanh đó ra giấy ta tiếp tục nhắm mắt lại và nghe. Nhưng lần này ta cố gắng nghe xem nhà hàng xóm đang nói với nhau chuyện gì, hãy hướng tới nhà hàng xóm và bắt đầu nghe. Sau 30 giây ta ghi lại điều ta vừa nghe được ra giấy. Kết quả thật thú vị, lần thứ 2 gần như ta không nghe thấy gì hoặc những âm thanh ta nghe cũng mờ nhật hơn rất nhiều lần thứ nhất. Điều khác biệt ở đây là gì, đó chính là ở lần thứ hai ta đã nghe chủ động và hướng tới một đích nhất định. Ở lần thứ nhất người ta gọi là Nghe thấy và lần thứ 2 mới được gọi là Lắng nghe theo sơ đồ minh họa.
Ảnh: chungta.com

Qua đó ta thấy rõ rằng lâu nay ta thường nghe thấy chứ chưa lắng nghe, chưa khai thác hết thế mạnh của việc lắng nghe. Và theo một thống kê xã hội học thì hiệu quả lắng nghe của mỗi người mới chỉ đạt 25% và vẫn còn lãng phí 75%. Có câu nói rằng "Nói là gieo, nghe là gặt", cánh đồng của ta rộng lớn nhưng ta mới chỉ khai thác 25% và bỏ lại 75% lúa gạo trên cánh đồng, đó là một lãng phí lớn. Cũng có câu nói rằng "Nói là bạc, im lặng là vàng, lắng nghe là kim cương", nếu ta biết khai thác thế mạnh về lắng nghe của mình ta sẽ gia tăng giá trị rất nhiều cho chính bản thân, công việc và cuộc sống của ta đều sẽ hiệu quả hơn gấp nhiều lần. Nếu ta tận dụng được thế mạnh về lắng nghe nó sẽ giúp ta thấu hiểu người khác, xây dựng niềm tin với người khác, học hỏi được rất nhiều điều và giải quyết được rất nhiều xung đột trong cuộc sống… Lắng nghe thực sự là thế mạnh mà lâu nay chúng ta vẫn chưa khai thác hết. Kinh Phật nói về lắng nghe như sau: "Lạy đức Bồ Tát Quán Thế Âm, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, biết lắng tai nghe cho cuộc đời bớt khổ. Ngài là trái tim biết nghe, biết hiểu. Chúng con xin tập ngồi nghe với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập ngồi nghe với tâm không thành kiến. Chúng con xin tập ngồi nghe mà không phán xét, không phản ứng. Chúng con nguyện tập ngồi nghe để hiểu. Chúng con xin nguyện ngồi nghe chăm chú để có thể hiểu được những điều đang nghe và cả những điều không nói. Chúng con biết chỉ cần lắng nghe thôi, chúng con cũng đã làm vơi bớt rất nhiều khổ đau của kẻ khác rồi." Đúng như một ai đó đã nói rằng "Hãy tin vào những gì ta có và thực tế là ta có hơn thế rất nhiều".  

C, Tiềm năng của bộ não
 

Ai cũng muốn mình thông minh hơn người khác, ai cũng muốn mình là người thành công, là người số một trong công việc và cuộc sống nhưng bằng cách thức nào chắc hẳn không phải nhiều người biết. Mỗi khi chúng ta đi mua bất kỳ một thứ gì, từ một vỉ thuốc, một cái bình lọc nước hay một cái máy tính cá nhân bao giờ cũng kèm theo là một cuổn sách "dày cộp" về hướng dẫn sử dụng trước khi dùng. Nhưng bộ não của chúng ta – một tài sản vô giá của mối các nhân và tổ chức, một siêu máy tính hiện đại, một công cụ quan trọng nhất giúp chúng ta đạt được tất cả hoạt động và quản trị nó như thế nào thì đa phần chúng ta đều chưa rõ? Con người chúng ta đi khắp nơi để khám phá và chinh phục mọi nơi trên thế giới nhưng trừ bộ não của mình – tiểu thế giới vĩ đại trong chính tâm trí mình. Theo các nhà nghiên cứu về Thần kinh học, mỗi ngày chúng ta có 50-60 nghìn suy nghĩ. Bấy lâu nay, chúng ta cứ lầm tưởng mình đã khai thác phần lớn sức mạnh bộ não của mình. Loài người chúng ta đã khám phá và phát huy một cách triệt để sức mạnh tư duy mà tạo hoá đã ban tặng cho chúng ta. Nhưng kết quả nghiên cứu lại đưa lại một điều hoàn toàn khác. Một con số mà đa phần chúng ta nghe lần đầu tiên phải rùng mình và không thể tin nổi. Con số trung bình mà con người chúng ta mới khai thác hiệu quả bộ não của mình cũng chỉ 4%. Và như vậy, chúng ta đang từng ngày, từng giờ lãnh phí 96% sức mạnh tư duy của mình. Chỉ cần làm một bài tập nhỏ ta sẽ thấy ngay được điều đó. Trong lớp thầy giáo yêu cầu sinh viên của mình nhắm mắt lại và bao giờ thầy yêu cầu mở mắt mới được mở. Sau khi sinh viên của mình nhắm mắt lại người thầy ra ngoài và 1 phút sau ông quay lại. Ông hỏi sinh viên của mình "Vừa rồi các ta nghĩ những gì", có rất nhiều ý kiến đưa ra, ta nghĩ tới bữa ăn trưa, ta nghĩ tới cô ta gái, ta thì thắc mắc không hiểu sao thầy lại yêu cầu như vậy, ta thì chẳng nghĩ được cái gì… Thầy giáo hỏi tiếp sinh viên của mình "Theo các em trong 1 phút đó thì bao nhiêu suy nghĩ của các em là hiệu quả có ích cho chính các em còn bao nhiêu suy nghĩ là vẩn vơ và vô ích". Đến lúc đó, sinh viên mới thấy được ý nghĩa của bài học và nhận ra rằng, lâu nay đã số suy nghĩ của mình là vẩn vơ và rất ít suy nghĩ có hiệu quả thực sự. 1 phút mà ta đã có nhiều suy nghĩ vẩn vơ như vậy, nếu thời gian là 1 ngày, 1 tuần, 1 năm…. Thì còn biết bao suy nghĩ vẩn vơ không hiệu quả được sinh ra nữa. Điều đó chẳng khác gì, chúng ta có một cánh đồng rất mầu mỡ nhưng chỉ trồng cỏ dại trong khi đó nó có thể trồng hàng trăm thứ cây khác mang lại hiệu quả kinh tế cao gấp hàng ngàn lần. Nhưng ta đừng quá vội lo lắng, bởi con số đó cũng nói lên rằng ta vẫn còn 96% sức mạnh bộ não của mình chưa được khai phá và đang chờ ta phát huy.
Ảnh: chungta.com

Không chỉ có vậy, ta thử tưởng tượng, ta có đôi tay, đôi chân, mắt, mũi, tai, nhưng ta sẽ khoanh tay lại, co một chân lên và nhắm mắt trong lúc ta đi lại, liệu việc đi lại lúc đó của ta sẽ như thế nào? Tương tự như vậy, bộ não chúng ta có 6 vùng chức năng: Cảm giác, thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác và vận động (hình vẽ). Nhưng ta đang học tập chủ yếu bằng thính giác mà không hề phát huy các vùng chức năng khác của não, việc đó không khác gì việc ta đi lại trên đường với đôi tay khoanh lại, chân co lên và mắt nhắm. Đó là lý do vì sao lâu nay việc học tập, làm việc của ta chưa thực sự hiệu quả như mong muốn. Các vùng chức năng của não nếu được kích hoạt đều bằng những trò chơi, vận động, cảm nhận… thì hiệu quả trong công việc và cuộc sống của ta tăng lên đáng kể. Đó cũng là một tiềm năng mà ta không chỉ cần biết mà còn cần khai thác và phát huy. Không chỉ có vậy ta còn có hai bán cầu não là bán cầu não trái và bán cầu não phải. Bán cầu não trái thiên về con số, phân tích, toán học, thời gian, chi tiết… Còn bán cầu não phải thiên về mơ mộng, sáng tạo, màu sắc, tổng thể, cảm nhận… Nhưng lâu nay ta chỉ tập trung phát huy bán cầu não trái nơi mà quên những cách thức phát huy cả bán cầu não phải của mình. Đó là tiềm nằng về cảm nhận và sáng tạo, từ đó sẽ nâng cao nhiều năng lực khác của bản thân mình trong công việc và cuộc sống.
Ảnh: chungta.com
Người ta nói rằng, bộ não là một công trình vĩ đại nhất mà chưa một cỗ máy nào có thể sánh kịp. Cũng chính vì lý do đó mà việc nghiên cứu về tiềm năng của bộ não chưa bao giờ dừng lại. Ta đang sở hữu một thứ vô cùng quý giá và vô cùng hữu ích cho chính bản thân mình mà ta không biết. Ngoài phương diện thần kinh học, giải phẫu học thì bộ não của ta còn được nghiên cứu trên lĩnh vực tâm lý học ứng dụng và cho thấy rất nhiều tiềm năng còn chứa đựng trong đó. Theo Bác sĩ Tâm lý Paul MacLean, mỗi người khi sinh ra đến khi mất đi đều có 3 não trong 1. Mặc dù ba phần não được sắp xếp chồng lên nhau, nhưng mỗi bộ có những chức năng và nhiệm vụ riêng biệt: Não bò sát, não thú và não người (hãy nhớ rằng, lý thuyết của bác sĩ MacLean đã được phát triển, tuy nhiên phần ứng dụng sau đây của lý thuyết của ông là một phép ẩn dụ trong quá trình tư duy và giải quyết vấn đề) Thuỳ não - phần cuối của bộ não là nơi bộ não kết nối với xương sống. Phần này là não bò sát. Vùng này có trung tâm điều khiển, hệ thần kinh tự điều chỉnh, dành cho những chức năng sống của cơ thể như nhịp tim, hô hấp. Não bò sát còn có chức năng phản ứng với những nguy hiểm và đe doạ như chạy trốn hay chống lại. Não bò sát là bộ phận có nhiệm vụ đảm bảo những chức năng sinh tồn của cơ thể (Không có logic đúng sai, không có suy luận). Ví dụ cho chức năng này của bộ não là các loại động vật như Rắn, Thạch sùng, Cá sấu….
Ảnh: chungta.com

Não thú - là trung khu cảm xúc, chứa đựng nhu cầu về gia đình, thứ bậc xã hội, bà con họ hàng. Trong não chó có một hệ thống Limbic - Hệ thống rìa, các phần khác nhau của hệ thống này được kết nối với cảm xúc và bộ nhớ. Hệ thống này đã tạo ra 2 công cụ cực kỳ hữu hiệu: Năng lực học tập và trí nhớ, giúp con người này càng thích nghi hơn với môi trường sống và trở thành "Kẻ thống trị thế giới" . Não thú của chúng ta cũng giống nhu con Cún chúng ta nuôi ở nhà. Thấy người quen thân thì vẫy đuôi mừng. Nhưng thấy người lạ thì sủa và cắn. Phần não này hoàn toàn là cảm xúc không có phân tích đúng sai ở đây. Vỏ não mới – hay còn gọi là não người, là vùng bao quanh đỉnh và cạnh của hệ thống Limbic chiếm 80% tổng thể tích của bộ não con người. Não người cho phép con người suy nghĩ logic và có suy luận. Thêm vào đó, vỏ não người đem lại kinh nghiệm tư duy trừu tượng. Suy luận logic, tư duy trừu tượng và ngôn ngữ là một trong những chức năng đặc biệt phân biệt con người với các loài động vật khác. Những kết quả nghiên cứu trên đã cho chúng ta thấy rằng, thông tin đầu tiên sẽ đi vào não thú, nếu như thông tin là tích cực thì não thú sẽ mở van năng lượng để não người hoạt động và cho ta những giải pháp, nếu thông tin là tiêu cực thì van năng lượng đóng và chúng ta hoạt động ở trạng thái não bò sát chỉ là "Chiến hay Biến". Lâu nay chúng ta chưa nhận thức tiềm năng này của bộ não chúng ta. Ta thường có những cái nhìn tiêu cực, những lời nói tiêu cực, những hành động tiêu cực như chê bai, chỉ trích, cáu giận, thù hận, cáu có… Điều đó đang khiến bộ não của chúng ta chưa phát huy được hết những tác dụng tích cực của nó. Nếu chỉ cần cười, khen ngợi nhiều hơn đồng thời có những cái nhìn tích cực hơn với công việc và cuộc sống là ta đang giúp gia tăng hiệu quả cho chính mình trong mọi lĩnh vực. Việc đó cũng giúp ta khai thác tốt hơn thế mạnh của 3 não trong 1. Có câu nói rằng "Đối với cả thế giới ta chỉ là một hạt cát nhưng đôi khi với một người ta là cả thế giới". Thế giới bên ngoài kia rộng lớn bao nhiêu thì thế giới trong ta cũng bao la như vậy.

D, Tiềm năng của những năng lực tư duy
 

Trẻ sơ sinh mới mấy tháng tuổi đã biết lắng nghe nhạc, líu lo tiếng hát không thành điệu. Trẻ thơ mới học đi đã biết vung chân múa tay theo nhịp. Trẻ con mới biết cầm bút đã biết bôi bôi xoá xoá, vẽ ra những thứ không thành hình. Con người bẩm sinh tựa hồ đã là nhà âm nhạc, nhà vũ đạo và hoạ sĩ; nhưng tại sao sau khi thành niên, phần lớn không còn ung dung thoải mái hát, múa, vẽ như khi còn nhỏ nữa? Vì ta đã biết xấu hổ, sợ bản thân không có giọng ca lảnh lót, thân hình uyển chuyển và hoa tay. Vì ta càng ngày càng bận rộn, bận đến nỗi không có thời gian thưởng thức âm nhạc, không có thời gian ca múa, không có thời gian múa bút vẽ tranh. Cứ như thế năm này sang năm nọ, ta dần quên tiềm năng mình có và cũng đánh mất đi rất nhiều niềm vui.
Ảnh: chungta.com

Lâu nay ta cứ nghĩ giỏi có nghĩa là phải giỏi toán giỏi văn các môn tự nhiên cũng như khi nhắc đến mua thịt ta sẽ nghĩ ngay đến thịt lợn. Chính quan điểm đó đã khiến chính chúng ta và rất nhiều người khác thiếu tự tin vào bản thân và thui chột đi rất nhiều tiềm năng sẵn có trong mình. Ta có quan niệm người thông minh là người học toán giỏi, còn nếu bản thân mình kém toán, kém các môn tự nhiên thì là không hề thông minh. Để thay đổi quan niệm này, Năm 1988, GS. Howard Gardner và nhóm cộng sự đã tìm tòi và đặt ra lý thuyết về " đa trí tuệ" (The theory of mutil – ple intelligences), ban đầu trí thông minh được chia làm 7 loại. Đến năm 1999, Gardner chia trí thông minh thành 9 loại, theo đó mỗi người bình thường đều thông minh tới một mức độ nào đó tại một hay nhiều miền sau đây: NLTD qua toán học, qua lôgíc NLTD qua ngôn ngữ NLTD qua giao tiếp NLTD trong nội tâm NLTD qua nhạc điệu NLTD qua tự nhiên NLTD qua không gian, thị giác NLTD qua ngôn ngữ cơ thể NLTD qua hiện sinh – Tâm linh Ai cũng có đầy đủ các năng lực tư duy. Song điều quan trọng là mỗi người phải xác định được nhóm năng lực của mình sau đó khai quật tiềm năng và đánh thức người khổng lồ trong chính ta. Những NLTD này sẽ thay đổi khi môi trường học thay đổi. Chúng có thể mất đi hay được nâng cấp. Và lâu nay ta mới chỉ khai thác hai năng lực tư duy là logic và ngôn ngữ của mình bằng việc tập trung vào học toán và văn mà quên đi 7 năng lực tư duy còn lại của mình là giao tiếp, tự nhiên, nhạc điệu, nội tâm, vận động, không gian, tâm linh. Học giỏi không có nghĩa là giỏi môn toán môn văn mà thể dục giỏi cũng là giỏi, đạo đức giỏi cũng là giỏi, hát nhạc hội họa giỏi cũng là giỏi. Và việc đó không khác gì việc mẹ cho ta 9000 ăn sáng, ta chỉ ăn 2000 và vứt 7000 còn lại đi. Nếu lâu nay ta vẫn làm việc đó thì hãy dừng lại và tự tin rằng tiềm năng về những năng lực tư duy vẫn đang sẵn có trong mỗi chúng ta và chờ chúng ta đầu tư và khai thác. E, Tiềm năng từ những chỉ số Ngày xửa ngày xưa, bên Ai Cập có một vị hiền triết tên là Zun-Nun. Ngày kia, một anh thanh niên đến và hỏi ông: "Thưa ngài, tôi không hiểu tại sao những người đáng kính như ngài luôn ăn mặc theo một cách giống nhau và luôn luôn đơn giản như vậy. Chẳng lẽ không cần chưng diện một tí, không phải để khoe khoang, nhưng còn vì mục đích khác nữa chứ, thưa ngài?".Nhà hiền triết chỉ cười và cởi chiếc nhẫn ở tay ra, trao cho chàng trai và nói: "Này anh ta trẻ, ta sẽ trả lời câu hỏi của cậu, nhưng trước tiên cậu phải giúp ta việc này đã. Hãy cầm lấy chiếc nhẫn này và đi đến khu chợ bên kia đường, cậu hãy đổi nó lấy một đồng vàng".Cầm chiếc nhẫn đen đúa của Zun-Nun trên tay, chàng thanh niên tỏ vẻ nghi ngại: "Một đồng vàng? Tôi không chắc là chiếc nhẫn có thể bán được với giá đó".
"Thử trước đã chàng trai, ai biết được điều gì có thể xảy ra?". Chàng trai trẻ phóng nhanh ra chợ. Anh ta đem chiếc nhẫn vào hàng tơ lụa, rau cải, thịt cá và rất nhiều nơi khác. Nhưng sự thực là không ai đồng ý trả cho anh ta với cái giá đó. Anh ta quay về gặp Zun-Nun và nói: "Thưa ngài, không một ai đồng ý bỏ ra một số tiền nhiều hơn một đồng bạc để mua chiếc nhẫn này cả".
Với một nụ cười nhẹ nhàng trên khuôn mặt trầm tĩnh, nhà hiền triết đáp lời: "Bây giờ anh hãy ra tiệm vàng ở cuối đường, đưa chiếc nhẫn này cho ông chủ. Đừng yêu cầu giá bán nhưng chỉ lắng nghe xem ông ta trả giá bao nhiêu".
Chàng thanh niên đi đến tiệm vàng theo yêu cầu và sau đó quay về với vẻ mặt khác hẳn. Anh ta nói: "Thưa ngài, những lái buôn ở chợ rõ ràng không biết giá trị của chiếc nhẫn này, người chủ tiệm vàng đã đồng ý mua chiếc nhẫn này với giá một ngàn đồng vàng, và giá trị thật của nó thì gấp cả ngàn lần so với cái giá của những con buôn ở chợ".
Zun-Nun mỉm cười và ôn tồn nói: "Đó là câu trả lời cho câu hỏi của anh. Không thể đánh giá con người mà chỉ dựa vào cách ăn mặc bề ngoài. Những lái buôn ở chợ định giá theo kiểu đó. Nhưng những nhà buôn vàng thì không như thế. Vàng và đá quý tồn tại bên trong mỗi con người, chỉ có thể được nhận ra và xác định giá trị nếu anh có thể nhìn thấu tâm hồn.

Cần có con tim để nhìn và cả một quá trình dài lâu. Chúng ta không thể ngang nhiên đánh giá người khác mà chỉ dựa vào những lời lẽ và cách cư xử trong một lúc nào đó. Nhiều lúc cái mà ta nghĩ là vàng hóa ra là đồng thau, nhưng thứ ta tưởng là đồng thau thì lại chính là vàng thật".

Ảnh: chungta.com

Ở câu chuyện trên ta thấy, để đánh giá một con người không thể dùng một thước đo duy nhất mà có rất nhiều thước đo chuẩn mực khác nhau để đánh giá con người. Lâu nay ta thường dựa vào IQ để đánh giá con người. Những khái niệm về trí thông minh, về chỉ số thông minh IQ đã ảnh hưởng không nhỏ đến tư duy và nhận thức của nhiều hế hệ người Việt. Nhận thức đó đã phần nào làm thui chột nhiều năng khiếu trong các lĩnh vực khác. Và thực tế thế giới đã chứng minh hàng năm vẫn có 30% số người có chỉ số thông minh IQ dưới trung bình vẫn gặt hái được những thành công vượt trội. Điển hình như tổng thống Bush của Mỹ, ông có IQ đạt điểm 89. Điều gì khiến Bush thành công và những người có IQ thấp thành công đến vậy. Đó chính là EI, SI, PI, AI và còn nhiều chỉ số khác nữa để đánh giá về một con người. EI là trí thông minh cảm xúc (Emotional Intelligence), đánh giá khả năng cảm nhận, hòa hợp của con người. SI là trí tuệ xã hội (Social Intelligence), đánh giá khả năng tương tác với những người xung quanh, cộng đồng và xã hội. PI là trí tuệ thực dụng (Practical Intelligence), đánh giá khả năng gia tăng giá trị, mức độ thực hành thực tế của con người trước những thông tin họ có trong môi trường và những mối quan hệ của họ. Và đặc biệt AI (Adversity Intelligence), đánh giá khả năng vượt khó vươn lên của con người trong những hoàn cảnh khó khăn nhiều biến động. Và đặc biệt trong số những chỉ số đó chỉ duy nhất có IQ là không thể rèn luyện được còn tất cả các chỉ số còn lại, những chỉ số làm nên thành công của chúng ta hoàn toàn có thể tăng lên nếu ta muốn. Có câu nói rằng "Người ta tuyển dụng ta dựa vào IQ nhưng cất nhắc ta dựa vào EI". EI là khả năng mà mỗi chúng ta có thể nhận ra và kiểm soát được cảm xúc của mình và của người khác, đồng thời thấu hiếu được mong muốn của chính mình và của người khác và có những kỹ năng xã hội cơ bản (Giao tiếp, lắng nghe, thuyết trình…). Ông cha ta có câu "Cần cù bù thông minh" còn Thầy tôi thường nói vui "Cần cụ là cụ thông mình" cũng như ai đã từng nói "Thiên tài là 1% thông minh và 99% là rèn luyện". Ta có sẵn sàng để thành công chưa? Nếu như thế giới bên ngoài của ta vô cùng phong phú đang chờ chúng ta khám phá thì thế giới bên trong chính chúng ta cũng đa dạng không kém. Ta cần biết về thế giới đó để thấy rõ hơn tiềm năng vốn có của mình. Để thấy rằng ta dù có là những chú sâu xấu xí cũng có những thế mạnh của riêng mình mà kể cả sư tử cũng không thể có được. Mà biết đâu, ta không phải là những chú sâu như ta nghĩ thì sao? 

Nguyễn Thị Thùy Dương - Tâm Việt Group

Nguồn: tamviet.edu.vn



Sưu tầm: www.chungta.com
(Ảnh: Go.vn)
(VOV) - Thời cai trị của Pháp, các quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa có bị mất đi?

Danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa và Trường Sa được xác định rõ ràng ít nhất từ thế kỷ VXII. Tuy nhiên, trong thời kỳ Việt Nam là thuộc địa của Pháp thì có một vấn đề được đặt ra là: Dưới thời cai trị của Pháp, các quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa có bị mất đi, cho phép nảy sinh một danh nghĩa có lợi cho một quốc gia khác, chẳng hạn như Trung Quốc?

Chúng ta cùng tìm hiểu vấn đề này qua việc phân tích chính sách của Trung Quốc và thái độ của nước Pháp trong thời kỳ này.

Từ năm 1884 đến năm 1909, không có bằng chứng nào chứng tỏ sự quan tâm của Trung Quốc đối với các quần đảo Hoàng Sa. Chỉ có một sự kiện duy nhất được các nhà biên niên sử ghi lại. Nội dung này khẳng định rõ ràng, Trung Quốc đồng ý với sự chiếm hữu của nước khác.
Ông Hoàng Việt, giảng viên Trường
Đại học Luật TP.HC(Ảnh: VOA)

Ông Hoàng Việt, giảng viên Trường Đại học Luật TP.HCM thuật lại câu chuyện do P.A Lapicque ghi lại như sau: “Năm 1895, tàu chở đồng của phương Tây (tàu Bellona của Đức) đi ngang qua vùng biển Hoàng Sa bị mắc cạn ở đó, rồi bị chìm. Ngư dân Trung Quốc ùa ra cướp về. Tàu này mua bảo hiểm của một hãng tại Anh quốc. Hãng bảo hiểm đó đã đòi tiền bồi thường của chính quyền Quảng Đông vì không đảm bảo được an ninh hàng hải. Chính quyền Quảng Đông (Trung Quốc) đã trả lời rằng, lãnh hải đó không phải của họ và họ không chịu trách nhiệm.”


Nội dung câu chuyện này còn được lưu lại trong một văn thư của Phủ Toàn quyền Đông Dương (Vụ Giám đốc các công việc chính trị và bản xứ) ngày 6.5.1921.

Rõ ràng, các nhà chức trách địa phương đã phủ nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đào này. Ý kiến của nhà chức trách địa phương, người nắm rõ nhất tình hình thực tế, là không có sự sáp nhập hành chính, bằng chứng của việc không quản lý.

Tuy nhiên, kể năm 1909, Trung Quốc bắt đầu thay đổi thái độ của mình đối với quần đảo Hoàng Sa. Trong năm này, Trung Quốc nói rằng đã phái một đoàn đi “thị sát” các đảo Hoàng Sa. Theo đó, đô đốc Quảng Đông Lý Chuẩn theo lệnh của Tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Nhân Tuấn đưa 170 lính thuỷ đổ bộ chớp nhoáng lên đó, gọi đó là thực hiện “quyền cai quản” của mình. Cần khẳng định ngay rằng, đây là hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam vì lúc đó quần đảo này đã thuộc Việt Nam, tuyệt đối không thể coi là việc thực hiện "chủ quyền" của Trung Quốc.

Ngày 30 tháng 3 năm 1921, Thống đốc dân sự Quảng Đông quyết định sáp nhập các đảo Hoàng Sa vào Nhai huyện (Hải Nam). Về sự kiện này, công sứ Pháp ở Trung Quốc không đưa ra lời phản đối chính thức nào vì cho rằng, hành động này được đưa ra bởi một chính phủ không được cả chính phủ trung ương Trung Quốc lẫn các nước khác thừa nhận,vv…
Bà Monique Chemillier Gendrea.(Ảnh: VOA)
Theo Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu, chính các hành vi của Trung Quốc trong năm 1895 (từ chối trách nhiệm về các vụ đắm tàu ở Hoàng Sa vì các đảo đó không thuộc Trung Quốc), rồi đến năm 1909 (đổ bộ chớp nhoáng lên một vài đảo trong quần đảo Hoàng Sa, qua đó khẳng định chủ quyền của Trung Quốc) đã làm suy yếu tất cả những lời khẳng định khác về việc chiếm đóng của nước này từ hàng thế kỷ xa xưa. Những hành vi trong năm 1909, dù có bổ sung thêm việc sáp nhập về hành chính nhưng không đủ cấu thành một sự chiếm hữu lâu dài, thật sự, hòa bình và liên tục. Các hành vi này được thực hiện bởi một chính phủ không được ghi nhận trong sự liên tục của nhà nước Trung Quốc. Như vậy, Trung Quốc không hội đủ các điều kiện để tạo ra một tình thế cho phép họ phủ nhận các quyền đã có từ trước của Việt Nam.

Tháng 3.1932, người Trung Quốc cho đấu thầu công khai ở Quảng Châu các quyền khai thác phân chim ở quần đảo Hoàng Sa. Pháp đã gửi công hàm cho Trung Quốc phản đối và khẳng định các quyền của mình và trong trường hợp Trung Quốc không thừa nhận quyền đó, đề nghị đưa ra trọng tài.

Theo Quyết định Postdam tháng 8.1945 giữa Liên Xô, Anh và Mỹ, Trung Hoa Dân quốc được giao tiếp nhận việc giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16o trở lên. Vì lý do này, Tưởng Giới Thạch đã chiếm đóng Hoàng Sa vào năm 1946. Và cũng làm như vậy với quần đảo Trường Sa mặc dù không được đồng minh ủy quyền. Dựa vào sự có mặt này, vào năm 1947, Bộ Nội vụ của Chính phủ Trung Quốc thời kỳ đó đã phát hành một tập bàn đồ trong đó thể hiện Trung Quốc bao gồm cả các quần đảo này. Cần khẳng định rằng, điều này không có nghĩa là nước này đã có các quyền “lịch sử” trên các đảo này, bởi vì sự bao gộp này hết sức muộn mằn và gắn liền với những hoàn cảnh đặc biệt.

Từ năm 1950, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa lặp lại các yêu sách của Trung Hoa Dân quốc nhưng không chỉ đối với Hoàng Sa mà cả Trường Sa.

Tuy nhiên, cũng trong giai đoạn này (1884-1956), chính phủ Pháp ở Đông Dương đã liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Hiệp ước Giáp Thân (1884) là Hiệp ước được Triều đình Huế kí với nước Pháp công nhận sự bảo hộ của Pháp. Kể từ đây, Pháp thay mặt Việt Nam trong những quan hệ ngoại giao với nước ngoài bên cạnh việc đảm bảo chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, trong đó có việc tiếp tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu: “Tôi đã tìm thấy trong thư từ ngoại giao những yếu tố cho thấy người Pháp dần dần quan tâm tới các quần đảo này và tự đặt mình vào bối cảnh quốc tế để đòi hỏi chủ quyền.”

Đúng như vậy! Bộ Thuộc địa và Phủ Toàn quyền Đông Dương đề cập đến chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa ngay từ năm 1898. Công văn của Vụ Châu Á-Châu Đại dương của Bộ Ngoại giao Pháp có đoạn viết: “…nhằm ngăn cản một cường quốc khác đứng trên các đảo đó (Hoàng Sa), có lẽ có lợi ích là nên xây dựng một hải đăng trong quần đảo này để khẳng định chủ quyền của chúng ta…”

Từ năm 1920, Hải quân Pháp đã có mặt đều đặn trên các quần đảo để ngăn chặn buôn lậu, một hình thức cảnh sát biển đã hoạt động ở đây.

Khi phải trả lời Công ty phốt phát Bắc Kỳ về việc muốn khai thác quần đảo Hoàng Sa, ngày 17 tháng 12 năm 1928, Toàn quyền Đông Dương viết cho Bộ trưởng thuộc địa và cảnh báo “chứng hoang tưởng tự cao, tự đại cứ tăng lên mãi của chủ nghĩa quốc gia Trung Quốc” và đã tuyên bố rõ ràng: “vậy đã đến lúc chúng ta phải tiến lên trước và khẳng định các quyền dường như đã được công nhận bởi cả các tư liệu lịch sử lẫn các thực tế địa lý”.

Tiến sĩ Sử học Nguyễn Nhã cho biết, để có chỗ dựa vững chắc cho lập trường này của Pháp, ông Toàn quyền đã yêu cầu Khâm sứ Trung Kỳ cung cấp tất cả các tài liệu của hồ sơ: “Chính quyền Pháp đã yêu cầu Khâm sứ ở Trung Kỳ tìm hiểu rõ vấn đề chủ quyền của An Nam ở Hoàng Sa. Qua các tài liệu thì thấy rõ những hành xử chủ quyền từ thời Chúa Nguyễn và nhà Nguyễn. Ông Thân Trọng Huề, nguyên Thượng thư Bộ Binh vào ngày 3.3.1925 cũng đã tuyên bố chủ quyền của An Nam đối với Hoàng Sa là không có gì phải tranh cãi.”

Tháng 11 năm 1929, Thượng nghị sĩ De Monzei viết thư cho Bộ trưởng Thuộc địa rằng: “các quyền của nước An Nam, và do đó của nước Pháp, đối với quần đảo Hoàng Sa dường như không thể tranh cãi từ thế kỷ XVII và các đảo này là một địa điểm tốt nhất cho việc đặt một trạm vô tuyến điện để báo trước các trận bão.”

Trong một văn thư của Quai d’Orsay, Bộ Ngoại giao Pháp do Knobel ký ngày 19/6/1930, một câu hỏi về pháp lý đã được đặt ra: Chủ quyền rõ ràng của An Nam với quần đảo Hoàng Sa liệu có bị mất đi vì không thực thi không? Tác giả đã kết luận là không vì các đảo Hoàng Sa không bị bỏ và do đó không trở thành vô chủ.

Bức thư của Toàn quyền Pasquier, ngày 18/10/1930 khẳng định lại Pháp có chủ quyền đối với quần đảo này. Bức thư chỉ rõ, Pháp có đầy đủ hồ sơ chứng tỏ rằng các quyền không thể tranh cãi của Việt Nam. Trong khi đó, Trung Quốc chỉ thể hiện sự quan tâm của họ từ năm 1909. Cần nói thêm rằng, lập trường của Pháp khi đó phải được hiểu như là “sự thực hiện các quyền chủ quyền đã tồn tại từ trước”. Nói cách khác, người Pháp nhận lấy pháp quyền và trách nhiệm giao nhượng cho họ từ người Việt Nam bị bảo hộ, tiếp tục bảo đảm quyền hạn pháp lý thay mặt cho người Việt Nam.

Ngày 4/2/1932, một công hàm được gửi cho Công sứ quán Trung Quốc nhằm khẳng định các quyền của nước Pháp, trong trường hợp không chấp nhận thì đưa ra trọng tài.

Vào cuối thời kỳ này, Pháp đã khẳng định rõ các quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa bằng các Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 15/6/1938 quy định việc thành lập một đại lý hành chính ở quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên và Nghị định ký ngày 5.5.1939 thành lập hai đại lý hành chính “Cụm Lưỡi Liềm và các đảo phụ cận” và “Cụm An Vĩnh và các đảo phụ cận”.

Những nội dung vừa phân tích chỉ liên quan đến quần đảo Hoàng Sa.

Trường hợp quần đảo Trường Sa đơn giản hơn vì không có bất cứ một yêu sách nào của Trung Quốc trong suốt thời kỳ thuộc địa.

Ngày 23 tháng 9 năm 1930, Pháp thông báo cho các nước thứ ba biết việc nước này chiếm hữu quần đảo Trường Sa. Tháng 4 năm 1933, việc chiếm hữu 6 đảo nhỏ đã được tổ chức trang trọng bằng việc “Công bố quyền thủ đắc do chiếm cứ các đảo do các đơn vị hải quân Pháp thực hiện”. Đáp lại sự khẳng định chủ quyền đó, Trung Quốc im lặng. Cùng năm này, Thống đốc Nam Kỳ là M. Krautheimer đã ký một Nghị định sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa,vv…

Theo TS. Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới của Chính phủ, những hành động vừa nêu đã chứng tỏ chính phủ Pháp đã có trách nhiệm trong việc chiếm hữu, khai thác liên tục và có hiệu quả trên vùng biển Đông thuộc chủ quyền của Việt Nam: “Khi đô hộ Việt Nam, Pháp đã đại diện cho Nhà nước Việt Nam về mặt đối ngoại, đã có những hành động, hành vi tiếp tục thực hiện chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo và họ đã để lại cho chúng ta những nghị định, quyết định trong việc thành lập các đơn vị hành chính, tổ chức các đơn vị đồn trú, khí tượng, các đài quan trắc, xây dựng các công trình trên đó,vv…”

Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu: “Đối với quần đảo Hoàng Sa, Pháp chỉ rõ là thừa hưởng giấy chứng thực chủ quyền của các Hoàng đế An Nam. Còn với Trường Sa, Pháp tuyên bố đã phát hiện ra và nhận chủ quyền quần đảo này. Người Trung Quốc chỉ bắt đầu đòi chủ quyền vào đầu thế kỷ XX và đòi hỏi của họ không dựa trên các bằng chứng lịch sử và pháp lý rõ ràng.”

Tính đến thời điểm kết thúc giai đoạn này (1939), Pháp đã thay mặt Việt Nam tiếp tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Quốc gia này chưa từng tuyên bố bỏ các đảo, để có thể tạo ra một quyền cho bên thứ ba.

Điều này có nghĩa là chủ quyền đã có từ xa xưa của Việt Nam vẫn luôn được duy trì.

Sau này, mặc dù trong tình hình nước Pháp bị lún sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương và cuộc chiến tranh thế giới thứ hai nhưng Pháp vẫn duy trì cả sự có mặt lẫn yêu sách của mình cho đến khi rút khỏi Việt Nam, để lại cho Việt Nam nhiệm vụ thay thế, góp phần duy trì danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở cuối thời kỳ thuộc địa (sau chiến tranh thế giới thứ hai).

Tiến sĩ Sử học Nguyễn Nhã(Ảnh: VOA)
Tiến sĩ Sử học Nguyễn Nhã: “Pháp nhân danh An Nam với quyền là Nhà nước bảo hộ thì đã có chủ trương rất rõ là không từ bỏ chủ quyền của An Nam ở hai quần đảo. Người Pháp đã tích cực thực hiện, thực thi chủ quyền một cách rất cụ thể.”

Trong một bức điện tháng 8.1946, Cao ủy Pháp tại Sài Gòn đã thông báo cho Tùy viên hải quân biết rằng, nước Pháp kiểm soát các đảo Hoàng Sa và bất kỳ tàu thuyền nào dự định ghé vào đấy phải xin phép Cao ủy.

Năm 1947, chủ quyền quần đảo Hoàng Sa là nội dung chính được bàn thảo trong các cuộc thương lượng giữa Pháp với Trung Hoa Dân quốc. Các đối thoại này không có kết quả gì đảng kể nhưng chúng là dịp để nước Pháp khẳng định lại các quyền của mình và đề nghị đưa vụ việc ra trước Trọng tài,vv…

Đáng chú ý, trong các tuyên bố hay các thỏa thuận đa phương, chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chưa bao giờ được xác định là của Trung Quốc. Nói cách khác, cộng đồng quốc tế chưa bao giờ công nhận hai quần đảo này thuộc về Trung Quốc.

Ngay trước khi kết thúc chiến tranh, qua Tuyên bố Cairo năm 1943, nguyên thủ của các chính phủ Mỹ, Trung Quốc và Anh “thông báo rằng, họ trù định giành lại của Nhật Bản tất cả các đảo ở Thái Bình Dương đã bị nước này cưỡng đoạt hay chiếm đóng từ khi khởi sự Chiến tranh thế giới thứ nhất và trả lại Trung Hoa dân quốc tất cả các lãnh thổ đã bị Nhật cướp của Trung Hoa, như là Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ và trục xuất Nhật Bản khỏi tất cả các lãnh thổ khác mà Nhật đã chiếm được bằng vũ lực.”

Tất nhiên, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc các lãnh thổ khác, không thuộc các lãnh thổ của Trung Quốc bị “cướp đoạt”.

Vì Trung Quốc là một bên tham gia bản tuyên cáo này nên bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu cho rằng, việc không nói tới các quần đảo trong phần này của Tuyên cáo Cairo năm 1943 thật đặc biệt. Nó không phải là kết quả của một sự tình cờ. Không có một bảo lưu cũng như một tuyên bố riêng rẽ nào của Trung Quốc về vấn đề lãnh thổ này. Trung Quốc đã buộc phải im lặng vì họ biết rằng, không thể bảo vệ tham vọng không chắc chắn trước các quốc gia khác, trong đó có Pháp, quốc gia không bao giờ công nhận cho Trung Quốc các quyền đối với các đảo Hoàng Sa và Trường Sa và trong nhiều trường hợp đã đề nghị đưa tranh chấp này ra trước tòa án quốc tế.

Thêm nữa, năm 1951, Mỹ và Anh đứng ra triệu tập Hội nghị San Francisco. Năm mươi mốt nước được mời. Hòa ước được ký vào ngày 8/9/1951. Theo các khoản của điều 2 của Hòa ước, Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và yêu sách đối với một số lãnh thổ, trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Có một sự kiện đáng chú ý liên quan đến hai quần đảo này là, theo yêu cầu của ông Gromyko (đại diện của Liên Xô), trong phiên họp toàn thể trong ngày 5/9/1951, Nhật Bản phải thừa nhận chủ quyền của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đối với một loạt lãnh thổ, trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng đề xuất này đã bị 46 nước trong số 51 nước có mặt ngày hôm đó bác bỏ.

Ông Đinh Kim Phúc, giảng viên khoa Đông Nam Á, Đại học Mở TP.HCM còn cho biết: “Chính Thủ tướng của Chính phủ Bảo Đại Trần Văn Hữu lúc bấy giờ cũng đã trịnh trọng tuyên bố trước Hội nghị ở San Francisco rằng, để xóa tan những nghi ngờ, những mầm mống xung đột về sau thì Việt Nam tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam như nó đã vốn có từ trước. Lời tuyên bố này của Thủ tướng không bị bất cứ phái đoàn nào tham dự hội nghị phản đối. Lời tuyên bố đó đã được ghi vào biên bản của hội nghị. Đây là những cơ sở luật pháp rất quan trọng mà Trung Quốc không thể phủ nhận.”

Tuyên bố này không gặp sự chống đối hoặc bảo lưu nào của đại diện 51 quốc gia tham dự Hội nghị.

Đặc biệt, ngày 28/4/1952, khi đến lượt mình ký một hòa ước với Nhật, Trung Hoa Dân quốc đã ghi nhận việc từ bỏ mọi quyền của Nhật đối với các đảo nhưng không đưa vào Hiệp ước này bất kỳ yêu sách nào đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nếu như khung cảnh của San Francisco ít thuận tiện để yêu sách của họ đạt được kết quả thì một cuộc đàm phán song phương là rất thuận lợi. Thế nhưng văn bản chỉ đề cập tới sự từ bỏ của Nhật mà không đưa ra một điều gì, sự công nhận nào từ phía Nhật rằng các đảo này thuộc Trung Quốc.

Về phần mình, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, qua phát ngôn của Bộ trưởng Ngoại giao Chu Ân Lai, ngày 15/8/1951 rằng, “các đảo Tây Sa và các đảo Nam Sa bao giờ cũng là lãnh thổ Trung Quốc”. Tuy nhiên, cần phải khẳng định ngay rằng, yêu sách này không phải là sự khẳng định một danh nghĩa lặp lại của thời kỳ trước cũng không phải như một quyền được rút ra từ việc quản lý thực sự.

Việc không khẳng định bất kỳ yêu sách nào với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong dịp có bản Tuyên bố Cairo và việc thừa nhận song phương sự từ bỏ của Nhật Bản mà không đưa ra yêu sách của chính mình cho phép kết luận là, Trung Hoa Dân quốc, nước bảo đảm sự liên tục của Chính phủ Trung Quốc duy nhất trước đó, đã từ bỏ các quyền của mình đối với các hòn đảo tranh chấp.

Nhưng liệu người ta có thể nói rằng, Trung Hoa Dân quốc đã từ bỏ các quyền của mình để Cộng hòa nhân dân Trung Hoa hưởng? Điều này là không thể có trong bối cảnh tuyệt giao giữa hai nhà nước.

Trong thời kỳ này, các đại diện của nước Việt Nam không thể phát biểu với tư cách như một quốc gia. Tuy nhiên, mỗi khi phát biểu, dù vào năm 1925 (nguyên Binh bộ Thượng thư của nhà vua), hay vào năm 1949 (Đổng lý Văn phòng của Bảo Đại) hoặc vào năm 1951 (tại San Francisco), nội dung là giống nhau: Các quần đảo đã thuộc Việt Nam từ lâu đời. Các quần đảo phải tiếp tục là của Việt Nam.

Ý chí đó kết hợp với việc Pháp liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã góp phần duy trì danh nghĩa chủ quyền rõ ràng của Việt Nam. Vì vậy, việc còn lại là xem xét số phận của các quần đảo này ở thời kỳ sau giai đoạn thuộc địa.

Lê Phúc-Lê Bình-Thùy Vân-Thu Lan 

Nguồn: VOV Online
Bài đăng cũ hơn Trang chủ
Loading

Việt 1 Radio - www.vietoneradio.com

  • Recent Posts
  • Video Youtube

Khát Vọng Tuổi Trẻ Video

    khatvongtuoitre.net

Lưu trữ Blog

Khế Ước Xã Hội    Hiến Pháp Trị Là Gì
 
Pháp Luật Là Gì?    Mơ Làm Thủ Tướng Chính Phủ
 
facebook khatvongtuoitre.net
© 2012 Khát Vọng Tuổi Trẻ. All rights reserved.
Provided by blogger