• Trang Chủ
  • Giới Thiệu
  • Khát Vọng Tuổi Trẻ
    • Góc Bình Luận
    • Góc Nghiên Cứu
    • Chủ Quyền Thiêng Liêng
  • Điểm Tin
    • Tin Thế Giới
    • Tin Việt Nam
    • Công Lý - Sự Thật
    • Nhân Quyền - Dân Chủ
  • Công Dân Học
    • Trách Nhiệm Công Dân
    • Kỹ Năng Công Dân
    • Giáo Dục
  • Bảo Mật
    • Vượt Tường Lửa
    • Mã Hóa Dữ Liệu
    • Sử Dụng Phần Mềm
  • Tâm và Tầm
    • Lời tâm sự
    • Mơ làm thủ tướng
  • Góc Thư Giãn
    • Chuyện Lạ
    • Truyện Cười
    • Góc Thơ
  • Góc Danh Nhân
    • Nguyễn Trường Tộ
    • Phan Châu Trinh
    • Phan Khôi
You are here : Home »
Hiển thị các bài đăng có nhãn góc nghiên cứu. Hiển thị tất cả bài đăng
Le Nguyen (danlambao) - Từ biến động chính trị ở Trung Đông, Bắc Phi còn được gọi là mùa xuân Ả Rập hay cách mạng hoa lài đến diễn biến chính trị tích cực, ngoạn mục của Nga, Miến Điện gần đây đã tác động lên các cá nhân, tổ chức đấu tranh cho dân chủ cả trong lẫn ngoài nước. Có nhiều ý kiến bình luận, phân tích rất phong phú, hữu dụng bên cạnh những lời kêu gọi xuống đường thay đổi chế độ độc tài toàn trị cộng sản Việt Nam khá ấn tượng, giúp hâm nóng bầu nhiệt huyết, thổi bùng ngọn lửa niềm tin và hy vọng trong lòng nhiều người Việt Nam khát khao tự do dân chủ. Tuy thế, nhìn toàn cục diễn biến chính trị trên thế giới, tác động đến tình hình chính trị Việt Nam cho chúng ta thấy đã đủ điều kiện “cần” cho một cuộc cách mạng dân chủ nhưng chưa có điều kiện “đủ” để làm cuộc cách mạng đường phố đánh đổ chế độ độc tài cộng sản Việt Nam.
Điều kiện “cần” cho cuộc cách mạng dân chủ là chúng ta đã có mọi thành phần xã hội phản kháng giai cấp thống trị, không tin vào kẻ cầm quyền lưu manh dối trá, đã nhận diện được bộ mặt phản dân hại nước của đảng cộng sản toàn trị. Từ khối dân oan mọi miền đất nước biểu tình, khiếu kiện dai dẳng ngày càng đông đến lực lượng công nhân khắp cả nước đình công đòi quyền lợi năm sau nhiều hơn năm trước. Từ thanh niên, sinh viên học sinh, văn nghệ sĩ biểu tình chống bành trướng Bắc Kinh đến kiến nghị tập thể của tầng lớp trí thức, lão thành cách mạng đòi dừng khai thác bauxite tây nguyên, ngăn không cho nước ngoài thuê đất rừng đầu nguồn cùng với các biến cố Bát Nhã, Thái Hà, Tam Toà, Cồn Dầu... gần đây nhất là biến cố nông dân vùng dậy chống áp bức bất công ở Cống Rộc, Tiên Lãng, Hải Phòng đã thu hút được hàng ngàn, chục ngàn, trăm ngàn người dân sục sôi phẫn nộ bày tỏ thái độ, phản đối hành động côn đồ gian manh “hèn với giặc ác với dân”của nhà nước cộng sản. 
Điều kiện “đủ” là chúng ta chưa chuẩn bị phối hợp được một cuộc xuống đường quy mô đồng loạt, đồng lúc là yếu tố chính đưa cách mạng bất bạo động lẫn bạo động đến thành công. Đây là thời điểm thuận lợi để các tổ chức đấu tranh, các đảng phái chính trị tái tổ chức, vận động phối hợp tổ chức xuống đường quy mô đồng loạt, với các phương tiện kỹ thuật tổ chức, thông tin liên lạc hiện đại do các thành viên trẻ năng động, dũng cảm, hạt nhân chính của các cuộc cách mạng thay đổi lịch sử cũng như tồn tại và phát triển của xã hội loài người trong quá khứ. Song song với những việc làm nêu trên,chúng ta cũng cần nghĩ đến nhiều kế sách khác, kể cả kế “ĐỐI LẬP CUỘI, TRÁ HÀNG, PHẢN GIÁN.” Muốn cách mạng dân chủ thành công phải chuẩn bị hoàn hảo nhất có thể được, nhất là phải tạo bất ngờ cho đối phương. Thí dụ vào giờ N một ngày khởi phát nào đó, hiệu lệnh xuống đường làm cách mạng đường phố xuất phát từ nơi bí mật trong nhà máy, xí nghiệp hoặc ở nơi được cho là quyền lực tối cao của đảng cộng sản Việt Nam chẳng hạn, có thể lắm chứ, tại sao khả năng đó không thể xảy ra? 
Ngoài ra, việc xuống đường làm cuộc cách mạng dân chủ, vai trò của quân đội rất quan trọng, góp phần không nhỏ trong cuộc lật đổ các chế độ độc tài quân phiệt lẫn độc tài cộng sản ở Trung, Đông Âu thế kỷ trước và Trung Đông, Bắc Phi ở thế kỷ này. Từ tầm nhìn đó, chúng ta cũng cần nên biết các sĩ quan trung, cao cấp của quân đội lẫn công an cộng sản Việt Nam đã được âm thầm đưa đi “tu nghiệp” từ nhiều năm qua, ở các nước dân chủ Mỹ, Úc... và trong quan hệ quốc tế bất cứ động thái nào cũng đều có lý do của nó? Đây là điểm nhấn cần lưu ý ghi nhận, là nhân tố quan trọng, quyết định thành bại khi cuộc cách mạng đường phố xảy ra! 
Riêng các cá nhân, tổ chức đã lộ diện hoặc công khai hoạt động, công khai bày tỏ chính kiến như: Nhóm bác sĩ Nguyễn Đan Quế, nhóm trí thức Đà Lạt, nhóm sỹ phu Bắc Hà... các cá nhân Lê Trần Luật, Nguyễn Bắc Triển, Nguyễn Văn Đài, Phạm Hồng Sơn, Lê Quốc Quân, Nguyễn Khắc Toàn, Lê Thị Công Nhân... cùng một số không ít khuôn mặt mới xuất hiện trong các cuộc biểu tình chống bành trướng Trung Cộng ở hai thành phố lớn Hà Nội, Saigon đã thể hiện phẩm chất đặc biệt quý hiếm rất bản lĩnh, rất thông minh và còn nhiều hoạt động đấu tranh âm thầm khác của các cá nhân, tổ chức cả trong lẫn ngoài nước khá đông, khá đa dạng đủ sức để làm cuộc cách mạng đường phố… Thiễn nghĩ, với chuyển biến của tình hình chính trị thế giới rất thuận lợi cho tiến trình dân chủ hóa Việt nam và với các hạt nhân dân chủ đã có, đã đủ để tổ chức cách mạng đường phố, chỉ cần mỗi cá nhân, tổ chức làm tròn phần vụ của mình sẽ không khó thực hiện kế hoạch cách mạng đường phố để Việt Nam có tự do, dân chủ thật sự? 
Trong lúc chờ thời khắc lịch sử chủ động hành động cách mạng đường phố, tạm gọi là ngày N đến, các cá nhân hoạt động xã hội, hoạt động nhân quyền, các tổ chức đấu tranh dân chủ đã lộ diện hoặc chủ trương công khai hoạt động cần di chuyển càng nhiều càng tốt nhằm tạo khoảng trống cho các cá nhân đấu tranh âm thầm hoạt động tổ chức cơ sở nền tảng. Bên cạnh đó, các tổ chức tôn giáo cần tổ chức hội họp, công bố công khai thường xuyên chương trình hành lễ của tôn giáo mình nhằm thu hút, xé mỏng lực lượng an ninh, làm cho chúng mỏi mệt, đau đầu đối phó với “thực và hư chiêu” điều quan trọng là tránh đối đầu gây tổn thất không cần thiết. Ngày N có thể sẽ là một trong những ngày lễ lớn của nhà nước cộng sản Việt Nam như ngày 30/04; 19/05; 02/09 hoặc ngày Phật Đản, lễ Giáng Sinh, tết Nguyên Đáng chẳng hạn! Đây là những ngày dễ phát động xuống đường nhất và nếu xuống đường với lá cờ đỏ của cộng sản thì nên lật ngược xuống cùng dấu gạch chéo lên ngôi sao vàng cộng với những biểu ngữ có nội dung đòi cơm ăn áo mặc, bình đẳng cho mọi người, đòi quyền yêu nước không yêu chủ nghĩa xã hội hoặc một biểu tượng thống nhất nào đó, phù hợp với thời điểm hành động, thích nghi với tình hình thực tế tại chỗ và hợp lòng dân. 
Ưu điểm của việc công khai thời điểm phát động cuộc cách mạng đường phố là chúng ta ở thế chủ động tiến công gây khó khăn cho chính quyền cộng sản và chúng luôn ở thế bị động phải chống đỡ đến suy kiệt, dù biết trước nhưng vẫn không ngăn được sự sụp đổ bởi chúng không thể đoán được ngày N là ngày nào, ngày nào cũng có thể là ngày N? Lẽ khác, dân chủ là xu thế của thời đại không thể đảo ngược và “thế lực thù địch”của đảng cộng sản ngay thời điểm này đã hiện diện khắp nơi ngày càng đông hơn, nhiều hơn, ở mọi nơi mọi chỗ, ngay chỗ quyền lực nhất là trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của đảng cộng sản Việt Nam cũng không còn là an toàn khu, không còn là nơi bất khả xâm phạm. Ở đó, cũng có khả năng là thế lực thù địch, âm mưu phá hoại đảng cộng sản, lật đổ chế độ từ bên trong đã bén rễ và hiện tượng này đã manh nha từ lâu, giờ là lúc chờ cơ hội bùng phát. Thế giới chuyển biến rất nhanh, thời cơ thay đổi đã đến rất gần, cách mạng đường phố sẽ thành công, Việt Nam nhất định sẽ trở thành một nước dân chủ thật sự, nhanh hay chậm là do toàn dân Việt Nam quyết định, trong đó không thiếu sự đóng góp tài năng lẫn trí tuệ của những cá nhân ưu tú của dân tộc Việt Nam, kể cả những cá nhân đã từng là Quốc Gia hay Cộng Sản. 
Tuy nhiên, theo lẽ thường để cho bộ máy vận hành tốt, tương đối hoàn hảo thì giải pháp tối ưu là phải thường xuyên bảo trì, phát hiện điều chỉnh một số sai sót kỹ thuật của hệ thống vận hành để bộ máy luôn hiệu quả. Do đó, để cách mạng đường phố đi đến thành công cũng không là ngoại lệ phải nhìn thẳng vào trở ngại, tháo gỡ vướng mắc thuộc lỗi nhận thức của những cá nhân đấu tranh thừa dũng cảm nhưng có cái đầu thiếu tỉnh táo dễ nổi nóng, vô tình lọt vào thế trận của đối thủ bày ra nên cứ loay hoay trong vũng lầy lý luận, cứ chạy theo đuôi đánh vào những mục tiêu ảo, tệ hại hơn là trở thành kẻ đánh thuê không công cho địch thủ. Chẳng hạn như có một số nhỏ khi có ai đó đề cập đến đám tay sai, quan chức của đảng cộng sản thường bị “đòi hỏi” phải sử dụng những ngôn ngữ hằn học, máu lửa hay những đảng viên lên tiếng phản đối chế độ bị “yêu cầu” phải công bố vứt thẻ đảng viên mới được công nhận là dũng cảm, là phản kháng thật hoặc những ai “tiếp cận”với guồng máy độc tài toàn trị cộng sản, không cần biết lý do đều bị ném đá không thương tiếc! Nhìn chung, tất cả đều do lỗi nhận thức thiếu sâu rộng mà ra. 
Xin hỏi, có cần phải tỏ thái độ, hành động như thế không? Nên biết rằng mọi thứ đều có ưu khuyết, có lá mặt lá trái không nên dễ dãi với chính mình để thay vì đấu tranh chống độc tài toàn trị lại vô tình trở thành người thi hành chính sách của độc tài toàn trị! Thiễn nghĩ mọi người đấu tranh trong chúng ta cần phải tận dụng tư duy, nâng cao nhận thức để hành động đấu tranh cho dân chủ hiệu quả hơn, thông minh hơn làm cho đối thủ phải dè chừng, phải mất ăn mất ngũ giữa “hư và thực”bởi tiến trình dân chủ, đấu tranh cho dân chủ với kẻ thù cộng sản gian manh, hung hiểm thừa độc ác nên không thể sử dụng những phương thức đấu tranh chính trị phổ cập, thông thường như trong các nước dân chủ văn minh tiên tiến mà phải bám sát tình hình chính trị thực tiễn Việt Nam để có những hành động thiết thực thích hợp với khả năng của mỗi người nhưng không kém phần hiệu quả cho dân chủ Việt Nam, nhất là phải thật nhạy bén để tránh trường hợp“quân ta đánh quân mình”vì quân ta hiện diện khắp nơi thoáng ẩn thoáng hiện, kể cả dưới các vỏ bọc đối lập cuội, trá hàng và phản gián. 
Le Nguyen
Nguồn: danlambaovn.blogspot.com
Ts. Vũ Duy Phú (BBC) - Những biểu hiện xấu đủ kiểu hiện nay ở Việt Nam không có gì khác, thậm chí về mức độ tồi tệ thì công bằng mà nói, còn kém nhiều thứ tương tự đã và đang xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới.

Nhưng đây là hệ quả của những sai lầm đã mắc phải và kéo dài làm trì trệ tệ hại và méo mó đến nguy hiểm đến sự phát triển của đất nước.

Một công dân ít học sẽ thấy rằng so với những năm tháng dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, so với thời kỳ dài gian khổ chiến tranh hoặc những ngày Cải cách Ruộng đất đẫm máu và nước mắt, cải tạo mà thực chất là tiêu diệt công thương nghiệp tư doanh, rồi ngăn sông, cấm chợ, bị bao vây kinh tế bốn bề, chiến tranh biên giới…thì Việt Nam hiện đã bảo đảm được hòa bình, phát triển ổn định và có những bước tiến vượt bậc về kinh tế, chính trị, xã hội.

Và đó một phần quyết định là do công lao lãnh đạo, chèo lái tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sai lầm hiện có, tuy khá trầm trọng, của cả đảng viên lẫn nhân dân là thường tình của một nước từ lạc hậu đang vươn lên, rồi chúng tất yếu sẽ được khắc phục mà thôi.

Số người hiểu như anh công dân này hiện chiếm tới khoảng trên dưới 60 – 70 % dân số.

Từ góc độ một nhà trí thức, một nhà giáo, hay một nhà báo am hiểu chính trị, thì Việt Nam hiện nay rõ ràng là đang quá nhiều bê bối.


 Karl Marx ở Moscow: Việt Nam vẫn theo thuyết Marx-Lenin(Ảnh: BBC)
Sự tiến bộ ít nhiều về kinh tế, chính trị, xã hội đã có, được coi là đương nhiên của một nước đã giành lại độc lập và kiến thiết sau chiến tranh, nhưng sẽ có những thành quả lớn hơn rất nhiều, nếu sau khi đã lãnh đạo nhân dân giành độc lập dân tộc đảng Cộng sản thực hành ngay tư tưởng đại đoàn kết, rộng hơn là minh triết của Hồ Chí Minh, cải cách dân chủ đa nguyên, xây dựng nhà nước pháp quyền tam quyền phân lập, cơ chế thị trường tự do và xã hội dân sự đầy đủ.

Như thế thì Việt Nam đã khác hẳn bây giờ, không hơn thì cũng chẳng kém các con rồng châu Á, như Hàn Quốc hoặc Singapore.

Nhưng không. Sau 1975, lúc đầu mới thấy xuất hiện những dấu hiệu vô lý trong quản lý xã hội, sau mới nhận ra là do sự thiếu kinh nghiệm, thậm chí ngu dốt của nhiều người trong giới lãnh đạo các cấp, cuối cùng mới vỡ lẽ ra là có những lực cản rất lớn, đó là ý thức hệ Marx Lenin, trong đó rường cột là giai cấp công nhân độc quyền mất dân chủ, rồi hậu quả nẩy sinh từ sự kéo quá dài của đường lối đó, gần đây đã phát triển đến mức tha hóa đạo đức xã hội trầm trọng.

Tha hóa trước tiên là trong giới cầm quyền, sau đó lan ra toàn dân.

Sai lầm rành rành mà không được lãnh đạo rất nhiều nhiệm kỳ kịp thời tiếp thu, sửa chữa đã gây ra những sự bức xúc, căn giận, rồi phản kháng các kiểu, và ranh luận lẫn nhau về đối sách của người dân trước chính quyền hiện nay.

Rất tiếc, số lượng người am hiểu như trên chỉ có khoảng 10 – 15% dân số toàn quốc.

Cả một quá trình


Còn từ góc độ một nhà nghiên cứu nghiêm túc, anh ta đi từ quá trình tiến hóa của loài người và thấy rằng nước ta và Trung Quốc về trình độ văn hóa và tổ chức xã hội, gần đây vẫn mới đang ở giai đoạn mà các nước phương Tây đã trải qua trước đây khoảng gần hai thế kỷ, khi họ mới thực hiện thành công các cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ và mới từng bước khắc phục được tàn dư lâu đời của chế độ phong kiến.


Thực trạng Việt Nam: người lao động khốn khó vì thiếu cải cách (Ảnh: BBC)

Nhà nghiên cứu đương nhiên chú ý đến nguyên nhân sự phân rã thế giới làm hai phe. Phe có động lực rất mạnh để phát triển một cách tự nhiên là chủ nghĩa tư bản dựa trên triết lý tự do.

Ở đây nhân tài lãnh đạo sự phát triển xã hội được chọn lọc thông qua cạnh tranh tự nhiên từ trong tầng lớp ưu tú mọi giai cấp xã hội được phát triển từ đường lối tự do, dân chủ, nhân quyền, nhà nước pháp quyền và coi trọng xã hội dân sự.

Phe kia theo học thuyết của Marx, lấy công bằng làm nền tảng tư tưởng cốt lõi nhất, vì vậy cần có kỷ luật trật tự xã hội rất nghiêm (kỷ luật sắt, khác ta là địch).

Vì lấy công bằng làm đường lối cốt lõi để tổ chức quản lý xã hội, nên mọi người không thể tự do, muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm để không có thể giầu có vượt trội lên.

Thương cảm nhưng sai lầm

Chủ nghĩa Marx xuất hiện trước tiên là từ cội nguồn cái tâm nhân đạo của Marx và Engels.

Tuy có cái tâm thương cảm những người cần lao khổ cực, nhưng hai ông đã nghĩ chưa chín và do đó đã phạm một sai lệch triết học lớn và một bất công mới.

Hai ông đã bỏ qua một nhận xét rằng, các nhà tư bản cũng là những con người, họ cũng cần được sống và được kiếm sống như những người công nhân.

Marx có thể không nhận ra rằng, sự bóc lột chỉ nảy sinh khi đã hiện diện một bên giàu làm chủ và một bên nghèo làm thuê rồi.

Vậy xã hội tồn tại trước khi phân liệt ra hai tầng lớp xã hội giầu nghèo khác nhau ấy là cái gì?

Phải chăng là sự khác biệt tự nhiên – chưa mang mầu sắc đạo đức, hay giai cấp - của những cá thể khác nhau, do Trời Phật hay Chúa sinh ra và sự ganh đua tự nhiên của những con người đó trong quá trình mưu sinh và đi tìm hạnh phúc đã làm nảy sinh ra một cách tự nhiên vô thức sự khác biệt giàu nghèo.

Muốn khắc phục bất công đó, không thể tạo ra một điều gì lại mang tính bất công mới, trong trường hợp của Mác, sự bất công mới đó chính là chủ trương tiêu diệt giai cấp tư sản, thực hành chuyên chính vô sản, cấm đoán tự do dân chủ, đảng của giai cấp công nhân độc quyền lãnh đạo.

Vậy làm thế nào để tránh được bất công giàu nghèo mà lại tránh sa vào một sự bất công mới?

Đó là đường lối thỏa thuận điều tiết hòa bình giữa các giai cấp thông qua một Nhà nước pháp quyền, tam quyền phân lập, một cơ chế thị trường tự do có điều tiết của chính phủ vì dân, do dân và của dân, và một xã hội dân sự hoàn chỉnh.

Khác biệt nhận thức

Đến đây, ta nhận thấy, mới phân tích để nhân diện tư duy và quan điểm của mới có ba tầng lớp dân cư của Việt Nam, đã thấy có những mức độ khác biệt rõ rệt.

Vì vậy, trong xã hội ta hiện có biết bao hoàn cảnh, trí tuệ và lương tâm khác nhau, từ đó nẩy sinh rất nhiều chính kiến:


Ban lãnh đạo Đảng hiện nay cũng là nạn nhân của sai lầm trong quá khứ (Ảnh: BBC)

Đó là Kiên định Chủ nghĩa Xã hội kiểu cũ; Cải cách triệt để, kiên trì Xã hội Chủ nghĩa đích thực, ủng hộ và khuyến khích Ban lãnh đạo mới của Đảng; Đối lập trung thành; Đạp đổ nhanh để xây mới lại hoàn toàn; Đấu tranh dân chủ, nhân quyền.

Tôi đã có lần viết trong một kiến nghị gửi Trung ương Đảng rằng, chính Bộ Chính trị của Đảng ta hiện nay cũng là nạn nhân của những sai lầm quá khứ của Đảng.

Mà sai lầm quá khứ của Đảng lại bắt nguồn từ những phần sai lầm của chủ nghĩa Marx-Lenin, mà phần sai lầm của chủ nghĩa đó lại là hậu quả của những tư duy chưa chín mùi và chưa đủ độ sâu sắc về quan điểm đạo đức của Nhân loại.

Quan điểm đúng là phải thoát ra khỏi tính Con trong Con Người hiện nay, phải thoát nhanh hơn ra khỏi sự u mê cạnh tranh theo luật rừng, lấy thịt đè người của các giống Con trong rừng, để tự giúp nhau cải hóa cho nhanh để trở thành những thực thể Người thực sự trên Trái Đất này.

Nói như thế là để không quy trách nhiệm sai lầm về lý luận vào riêng một ai, nhưng mà để cương quyết sửa chữa những sai lầm đã mắc phải và kéo dài làm trì trệ tệ hại và méo mó đến nguy hiểm sự phát triển đáng có của một đất nước đã từng anh hùng, có một nhân dân đã từng anh hùng nhưng đến nay đã bị biến dạng đi khá nhiều do những sai lầm tệ hại của Chủ nghĩa Xã hội Hiện thực trên thế giới gây ra.

Quay lại vấn đề thời sự của chúng ta hôm nay: Do đâu có sự tha hóa đạo đức xã hội trầm trọng như đang xảy ra và đã được đánh giá rất xác đáng trong các văn kiện Đại hội Đảng?

Đó là sai lầm trong vận dụng kéo dài những phần sai của chủ nghĩa Marx-Lenin, thiếu nghiêm túc, thiếu nghiêm chỉnh kiên trì vận dụng tư tưởng đường lối và đạo đức sáng ngời của Hồ Chí Minh: Đoàn kết, đại đoàn kết, trân trọng và liên kết cả những tư duy và lực lượng đối lập như là những yếu tố phản biện tích cực, thực hành đường lối Lấy Dân làm gốc, Dân chủ, Cộng hòa để có Độc lập, Tự do, Hạnh phúc. Bài viết được rút gọn từ bản dài hơn của tác giả Vũ Duy Phú, Viện Những Vấn đề Phát triển (VIDS) tại Hà Nội, Việt Nam. BBC sẽ tiếp tục đăng tải các bài về chủ đề Đảng Cộng sản và Trí thức. Mong quý vị gửi cả các bài và ý kiến ủng hộ, chia sẻ quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Tiến sỹ Vũ Duy Phú

Gửi cho BBC Việt ngữ từ Hà Nội 
Nguồn: BBC Tiếng Việt
(Ảnh: livevn.com)
(Nguyễn Gia Kiểng) - “…Cuộc thảo luận về ưu tiên giữa hai loại quyền đã rất gay go, có lúc dữ dội, đôi khi đẫm máu. Các chế độ cộng sản đã hứa hẹn những quyền được có và nhân danh lời hứa không hề được thực hiện này để xoá bỏ những quyền không bị…”

LTS: “Biến cố Đoàn Văn Vươn” đang đặt ra cho chính quyền Việt Nam một bài toán nan giải: Nếu im lặng hoặc bênh vực chính quyền Hải Phòng và Tiên Lãng thì rõ ràng đảng đối lập với nhân dân. Nếu đảng trừng phạt đám cường hào mới này thì đảng phải thừa nhận là chính quyền sai phạm và yếu kém. Đâu là nguyên nhân dẫn đến việc một cựu quân nhân, một kỹ sư nông nghiệp, một nông dân đã có những hành động quyết liệt và tuyệt vọng như anh Đoàn văn Vươn? Dư luận và giới báo chí đang mổ xẻ những nguyên nhân này. Theo chúng tôi thì nguyên nhân của mọi nguyên nhân là do chính quyền Việt Nam không tôn trọng và thực thi các quyền căn bản của công dân, quyền của mỗi con người. Dù rằng Việt Nam đã gia nhập Liên Hợp Quốc vào năm 1977 và Việt Nam cũng đã kí vào bản “Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân Quyền”. Để rộng đường dư luận chúng tôi đăng lại bài viết trước đây của ông Nguyễn Gia Kiểng về “Quyền con người” và Bản “Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền” của Liên Hợp Quốc năm 1948.

Chúng ta có thể mừng rằng cuộc tranh luận quyền con người đã ngã ngũ, quyền con người đã được nhìn nhận là một giá trị phổ cập. Nhưng cũng chính vì không còn thảo luận nữa mà quyền con người có nguy cơ trở thành mơ hồ; người ta cảm nhận như là một điều hiển nhiên nhưng không thể giải thích một cách minh bạch và do đó không thể tranh đấu cho nhân quyền một cách thuyết phục và hiệu lực. Chưa kể là còn có thể không hiểu đúng và lý luận lệch lạc. Đây không phải chỉ là một giả thuyết, trong nhiều trường hợp đã thực sự có những phát biểu rất đáng buồn. Có những người tuyến bố chỉ tranh đấu cho nhân quyền chứ không "làm chính trị"; họ coi hoạt động nhân quyền như một hành động từ thiện mà quên, hay không biết, rằng nhân quyền bao giờ cũng thuần túy là một vấn đề chính trị. Tệ hơn nữa, còn có người tự nhận là tranh đấu cho dân chủ nhưng lại phân biệt những quyền cấp một (gồm quyền được ăn no, mặc ấm, săn sóc sức khỏe và những quyền tương tự) cần được thoả mãn ngay, và những quyền cấp hai (gồm các quyền tự do chính trị và văn hoá) có thể trì hoãn, mà không hiểu rằng ngay cả những chính quyền độc tài cũng không còn lý luận như vậy nữa. Những quyền gọi là "cấp một" thực ra chỉ là quyền con vật chứ không phải quyền con người. Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, được cả thế giới văn minh nhìn nhận, không có sự phân biệt này. Vấn đề chỉ là chọn đứng về phía thế giới văn minh hay chọn làm đồng loã với những chế độ chà đạp nhân quyền mà thôi. Và tại sao, vì lý do siêu hình nào, căn cứ vào kinh nghiệm cụ thể nào, các quyền tự do chính trị và văn hoá lại mâu thuẫn với cơm no áo ấm ?

Sự thiếu kém tư tưởng của người Việt Nam biểu lộ qua chính một danh xưng đã thành thói quen: Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Cụm từ này được dùng để dịch cụm từ Universal Declaration of Human Rights (tiếng Pháp là Déclaration Universelle des Droits de l’Homme). Dịch như vậy không những sai mà còn trái nghĩa. Universal có nghĩa là phổ cập, nghĩa là phải được coi là đúng ở mọi nơi, bởi mọi người. Quốc tế (International) là giữa các nước. Đáng lẽ phải gọi là Tuyên Ngôn Phổ Cập Về Quyền Con Người hay Tuyên Ngôn Toàn Cầu Về Nhân Quyền. Từ "quốc tế" không những chỉ sai mà còn phản nghĩa vì nó làm người ta hiểu lầm rằng nhân quyền là một vấn đề trong bang giao giữa các quốc gia mà không kể đến những gì xảy ra trong mỗi quốc gia, trong khi đây là văn kiện khẳng định quyền của mỗi cá nhân. Về nội dung nó là một bản tuyên ngôn của tự do cá nhân, không phân biệt quốc tịch, địa lý, chủng tộc, hay bất cứ một tiêu chuẩn nào, mà mọi người, mọi đoàn thể và mọi nhà nước phải tôn trọng (1). Những lấn cấn và sai lệch như vậy chứng tỏ rằng thảo luận lại để nhìn rõ hơn về quyền con người vẫn còn cần thiết.

***Cụm từ "quyền con người", hay nhân quyền, đặt ra ít nhất bốn câu hỏi: Con người mà chúng ta nói đến là con người nào? Ai ban phát những quyền này và nhân danh cái gì? Những quyền con người là những quyền nào? Tất cả những quyền ấy có ngang hàng với nhau không, hay có những quyền phải được tôn trọng một cách tuyệt đối, tức khắc và toàn diện, và những quyền khác chỉ có thể thoả mãn theo từng hoàn cảnh?

Câu hỏi "con người nào?" không giản dị như người ta tưởng. Đã phải mất hơn hai thế kỷ tranh cãi người ta mới đạt tới câu trả lời dứt khoát: đó là mỗi cá nhân, không phân biệt theo bất cứ tiêu chuẩn nào. Đó là tôi, là bạn, là bất cứ mỗi người nào mà chúng ta có thể gặp, hoặc biết tới, hoặc nghĩ tới. Con người phổ cập này một mặt khá trừu tượng vì không chỉ định riêng một cá nhân nào cả, nhưng mặt khác lại rất cụ thể vì thể hiện một cách toàn diện trong mỗi cá nhân. Đây là một vấn đề triết lý tế nhị. Tại Tây Âu và Hoa Kỳ, con người này, mà đặc tính cốt lõi là phải được nhìn nhận và tôn trọng vì có những quyền căn bản không thể xâm phạm, dù đã manh nha với Phật giáo, Thiên Chúa giáo và tư tưởng cổ Hy Lạp, đã chỉ được thực sự thai nghén từ thế kỷ 16, giai đoạn cuối của thời Phục Hưng, và ra chào đời cuối thế kỷ Ánh Sáng (thế kỷ 18), trong đó sự xuất hiện của đạo Tin Lành một cách vô tình đã góp phần đáng kể. Các nước châu Á và châu Phi chỉ thực sự biết đến cá nhân sau khi tiếp xúc với phương Tây. Trước khi cá nhân xuất hiện chỉ có con người thành viên của một đoàn thể hay một đẳng cấp nào đó. Con người thành viên này không có sự hiện hữu độc lập và những quyền riêng biệt.

Sự ra đời của con người phổ cập này đã rất khó khăn, sự trưởng thành của nó cũng khó khăn không kém. Cho đến cuối thế kỷ 20, và một phần nào đó ngay trong lúc này, vẫn còn có những người không thừa nhận sự hiện hữu của cá nhân độc lập. Hai triết gia lớn cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 là Edmund Burke và Joseph de Maistre phủ nhận con người phổ cập, mà họ gọi "con người trừu tượng", một cách quyết liệt. Đối với họ chỉ có con người thuộc một chủng tộc, một quốc gia, một tôn giáo hay một giai cấp mà thôi. Trong suốt hai thế kỷ 19 và 20, Karl Marx và trường phái của ông cũng phủ nhận một cách thù ghét cá nhân và chủ nghĩa cá nhân. Marx định nghĩa cá nhân như là "con người tách biệt khỏi xã hội" và đồng hoá nó với sự vị kỷ. Các chế độ cộng sản không biểu quyết bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và chà đạp trắng trợn con người không khác gì các chủ nghĩa phát-xít, quốc xã.

Cá nhân (individu), tức con người phổ cập, đã chỉ được nhìn nhận và tôn trọng (ít nhất trên lý thuyết) nhờ hai sự kiện: một là các nước dân chủ, lấy chủ nghĩa cá nhân làm nền tảng, đã thành công hơn hẳn các chế độ chuyên chính chà đạp con người; hai là các tiến bộ về khoa học và nhân chủng học đã chứng minh được rằng quả nhiên có một giống người, khác hẳn với các động vật khác, có cấu tạo như nhau, những khả năng bẩm sinh như nhau, những bản năng, ước vọng và suy tư giống nhau, và chia sẻ với nhau một số giá trị chung. Có thể nói khám phá trọng đại nhất của loài người đã là khám phá ra chính mình, khám phá ra cá nhân.

Những gì vừa nói trên đây có thể bị một số người coi là mông lung. Họ lầm. Sự không biết đến cá nhân đã có những hậu quả, triết lý cũng như cụ thể, rất trầm trọng.

Một thí dụ là trường phái Lãng Mạn (Romanticism) tại châu Âu đã bị trôi dạt rất xa khỏi tinh thần khởi đầu của nó chỉ vì sự thiếu vắng của cá nhân. Trường phái này bắt đầu bằng một tuyên ngôn tự do tuyệt đối: "Tôi không cần phải giống ai cả, tôi không bị ràng buộc vào một hệ thống giá trị nào cả, tôi tự tạo cho mình những giá trị của riêng mình". Tôi tự cho tự do tuyệt đối để sáng tạo. Nhưng "tôi" là ai ? Vào lúc đó (thế kỷ 17) cá nhân chưa xuất hiện, vả lại trường phái Lãng Mạn đã phủ nhận cá nhân khi khẳng định "tôi không giống ai cả", trong khi nền tảng của khái niệm cá nhân chính là niềm tin có một giống người trong đó mỗi thành viên có những khả năng giống nhau và chia sẻ một số giá trị.

Sự thiếu vắng cá nhân đã tức khắc biến cái tôi lãng mạn thành cái tôi tập thể: nhà nước, đảng, tôn giáo. Cái tôi mà người ta tuyên bố giải phóng lúc ban đầu chẳng còn gì cả, nó chỉ như viên gạch trong một lâu đài, và chỉ có lâu đài là đáng kể. Cái tự do tuyệt đối bất chấp mọi giá trị mà người ta định dành cho "tôi" biến thành tự do tuyệt đối của tập thể, đúng hơn là quyền muốn làm gì cũng được của người cầm quyền. Từ đó nảy ra những khẩu hiệu "tổ quốc trên hết", "đảng đã quyết định như thế", "dân làm chủ" nhưng "dân" không là ai cả mà chỉ có người đại diện toàn quyền là đảng và nhà nước. Đảng và nhà nước không thể sai vì không bị ràng buộc bởi một hệ thống giá trị nào cả. Lenin đã nói một câu chắc nịch như nhát búa của đao phủ : "Đạo đức là những gì tốt cho đảng cộng sản", các tín đồ của Lenin tại Việt Nam cũng ngạo nghễ không kém : "Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội" (phải hiểu : chống chủ nghĩa xã hội là phản quốc). Sự vắng bóng của cá nhân đã khiến cho trường phái Lãng Mạn, một phong trào có mục tiêu giải phóng và sáng tạo lúc ban đầu, biến thành nhà hộ sinh cho những chủ nghĩa chuyên chính cộng sản, phát-xít, quốc xã Đức, quân phiệt Nhật. Đây là sự hoại loạn (perversion) lớn nhất trong lịch sử tư tưởng thế giới.

Một thí dụ khác. Nước Pháp thường tự hào là quê hương của nhân quyền. Họ coi bản Tuyên Ngôn Quyền Con Người và Quyền Công Dân (Déclaration des Droits de l’Homme et du Citoyen) năm 1789 có giá trị tương đương với bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ năm 1776. Điều này sai, điểm khác biệt lớn giữa hai văn kiện này là định nghĩa về con người. Con người trong bản tuyên ngôn của Hoa Kỳ là cá nhân, vừa phổ cập và trừu tượng vì không là riêng ai, vừa rất cụ thể vì có thể là bất cứ người nào trên thế giới. Con người trong bản tuyên ngôn của Pháp là một công dân Pháp. Người Pháp cũng đề ra những quyền căn bản và phổ cập của con người, nhưng hầu như họ chỉ nhìn nhận những quyền này cho người Pháp. Thái độ này thể hiện một cách cụ thể trong tư tưởng chính trị Pháp: cho đến thế chiến II Pháp là một đế quốc thực dân, thực hiện dân chủ tại nước họ nhưng chà đạp nhân quyền tại các thuộc địa. Người dân các thuộc địa không được nhìn nhận là công dân (citoyen) Pháp, họ chỉ được coi là thần dân Pháp (sujet français). Hoa Kỳ, cái nôi thực sự của quyền con người và chủ nghĩa cá nhân, không có thuộc địa. Nước Anh, gần với văn hoá Mỹ hơn, tuy cũng có thuộc địa nhưng đối xử với các thuộc địa theo một tinh thần rất khác với Pháp. Họ coi mối liên hệ với các thuộc địa là liên lạc thương mại ; nếu cần họ giúp các thuộc địa lập ra các quốc gia để làm những đối tác bình đẳng với họ, như trường hợp Úc, Canada, Mã Lai và Ấn Độ. Họ tôn trọng quyền con người trong các thuộc địa bởi vì họ có ý niệm rõ ràng về cá nhân. Đối với họ, con người là con người. Đối với Pháp, con người trước hết là người Pháp, người Ý, người Việt, người Congo, v.v. (2).

Những thí dụ trên cho thấy vai trò nền tảng của cá nhân và chủ nghĩa cá nhân. Vắng bóng cá nhân những tư tưởng tốt đẹp cũng trở thành bệnh hoạn.

Ai ban phát quyền con người và nhân danh cái gì?

Câu hỏi này giản dị hơn nhiều so với câu hỏi "con người nào ?" trên đây. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ trả lời một cách giản dị và dứt khoát : thượng đế tạo ra con người và ban cho con người những quyền cơ bản, không thể bị tước đoạt, không thể chuyển nhượng và không thể tiêu hao với thời gian. Khẳng định này rập khuôn theo tư tưởng chính trị của John Locke (1632-1704). Có những câu được chép gần như nguyên văn từ tác phẩm Tổng Luận Về Chính Quyền Dân Sự (Second Treaty of Civil Government) của ông. Như vậy thượng đế là căn bản chính đáng của quyền con người và vì thượng đế là tối cao nên quyền con người cũng là tối cao, và là quyền tự nhiên.

Bản Tuyên Ngôn Quyền Con Người và Quyền Công Dân năm 1789 dựa trên một nền tảng chính đáng khác: đó là "các đại biểu của nhân dân Pháp họp thành đại hội" tuyên bố các quyền con người và công dân với sự chứng giám của Đấng Tối Cao (l'Être Suprême). Như vậy tính chính đáng của tuyên ngôn này bị giới hạn. Trước hết là về tính phổ cập, nếu những quyền này do một hội đồng đại biểu của nhân dân Pháp quyết định thì một hội đồng đại biểu của một dân tộc khác (thí dụ dân tộc Libya) cũng có quyền qui định một cách khác. Mặt khác lại có thêm khái niệm "công dân", một khái niệm chính trị và một tư cách do chính quyền nhìn nhận, như vậy không áp dụng cho những người không được coi là công dân. (Ở đây xin mở một ngoặc đơn để chú thích về một vấn đề từ ngữ chính trị Việt Nam. Khái niệm xã hội dân sự (civil society) được một số tác giả dịch ra tiếng Việt là "xã hội công dân". Tôi không đồng ý với cụm từ này ; một người dù không được nhà nước cộng sản Việt Nam coi là công dân vẫn là một người và do đó vẫn có những quyền cơ bản, một trong những quyền này là quyền tham dự vào các đoàn thể, nghĩa là hiện diện trong xã hội dân sự). Sau cùng, ngay trọng nội bộ một dân tộc, cái gì một hội đồng quyết định thì sau đó một hội đồng khác có thể bãi bỏ, Đấng Tối Cao có hiện diện hay không cũng bất lực. Tóm lại, tính chính đáng của bản Tuyên Ngôn Quyền Con Người và Quyền Công Dân của Pháp bị giới hạn cả về không gian lẫn thời gian.

Những quyền con người trong Tuyên Ngôn Độc Lập của Mỹ như vậy có tính chính đáng vững mạnh hơn nhiều. Nhưng bản tuyên ngôn này lấy Thượng Đế làm nền tảng chính đáng cho quyền con người nên một câu hỏi được đặt ra : nếu tôi không phải là tín đồ Thiên Chúa giáo và không tin ở sự hiện hữu của thượng đế thì sao ? Ngay từ thế kỷ 17, giữa một châu Âu Thiên Chúa giáo, đã có những nhà tư tưởng (như Grotius) tuyên bố dõng dạc "dù có Thượng Đế hay không thì những quyền cơ bản của con người vẫn thế". Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (cụm từ sai lầm đáng tiếc này đã trở thành thông dụng !) một phần nào đã giải quyết trên lý thuyết nền tảng chính đáng của quyền con người: đó là cộng đồng các quốc gia, thay mặt cho Nhân Loại, tự khẳng định những quyền căn bản của con người. Đây là một bước tiến lớn của loài người trên lộ trình tự giải phóng mình và khẳng định chính mình. Tuy nhiên bước tiến này vẫn chưa đủ xa và đủ mạnh, bởi vì Liên Hiệp Quốc vẫn còn chấp nhận những thành viên chà đạp trắng trợn quyền con người, như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba và nhiều nước khác ; đại biểu các nhà nước này nhiều khi hiện diện ngay trong ủy ban nhân quyền của Liên Hiệp Quốc. Như vậy thì cuộc chinh phục tự do của con người vẫn chưa xong.

Tương lai sẽ ra sao ? Cần nhận định một cách dứt khoát là các quyền căn bản qui định trong Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền này - tự do cư trú, tự do chọn lựa nghề nghiệp, tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận và thông tin, tự do thành lập và tham gia các tổ chức, tự do bầu cử và ứng cử, v.v. - định nghĩa rõ rệt một chế độ dân chủ. Bản tuyên ngôn này cũng chính là Tuyên Ngôn Dân Chủ. Như vậy, quyền con người sẽ chỉ được thể hiện trọn vẹn khi dân chủ trở thành trật tự mới của thế giới. Chúng ta có mọi lý do để tin tưởng rằng trật tự này sẽ được thực hiện trễ nhất là trong một hai thập niên nữa. Lúc đó thế giới sẽ quả thực bước vào thời đại văn minh.

Những quyền nào và theo thứ tự nào?

Câu hỏi này phức tạp hơn và sẽ luôn luôn cần được thảo luận và cập nhật. Một cách tóm lược ta có thể phân biệt hai loại quyền: những "quyền không bị" (freedoms from / droits-libertés) và những "quyền được có" (freedoms to /droits-créances).

Những quyền không bị là những quyền căn bản tối thiểu: không bị xâm phạm tới cơ thể, gia đình, tài sản; không bị cấm đoán phát biểu lập trường, thu nhận và phổ biến thông tin; không bị cấm cản thành lập và tham gia các tổ chức, ứng cử và bầu cử, v.v. Những quyền này qui định một không gian cá nhân mà nhà nước hay bất cứ ai không thể xâm phạm. Đó là những quyền tự do căn bản.

Những quyền được có là những gì cá nhân có thể đòi hỏi ở cộng đồng, đặc biệt là nhà nước, thí dụ như quyền được có một lợi tức bảo đảm một mức sống xứng đáng về thực phẩm, sức khỏe, nhà ở; được hưởng giáo dục miễn phí, được trợ cấp sinh đẻ và nuôi con, được có công ăn việc làm và được hưởng một số ngày nghỉ có trả lương, v.v. (những điều 23, 24, 25 và 26 của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền).

Tùy theo thứ tự ưu tiên dành cho hai loại quyền này mà tự do hay bình đẳng được coi trọng hơn. Những quyền không bị bảo đảm tự do, trong khi những quyền được có có mục đích bảo đảm một mức độ bình đẳng nào đó để tự do không phải chỉ là một khái niệm trừu tượng và có thể rỗng nghĩa đối với những người yếu đuối hoặc thiếu may mắn (quyền tự do đi du lịch ở Bahamas có ý nghĩa gì khi tôi không có tiền ngay cả để mua thực phẩm ?). Cuộc thảo luận về ưu tiên giữa hai loại quyền đã rất gay go, có lúc dữ dội, đôi khi đẫm máu. Các chế độ cộng sản đã hứa hẹn những quyền được có và nhân danh lời hứa không hề được thực hiện này để xoá bỏ những quyền không bị.

Một cách khách quan và lương thiện, chúng ta có thể đưa ra một vài nhận định. Trước hết, thực tế cho thấy các xã hội tôn trọng tự do cũng là những xã hội phồn vinh nhất và tự do không phải là hậu quả mà là nguyên nhân của phát triển, bởi vì các xã hội dân chủ và phát triển đã chọn tự do kể từ lúc họ chưa phát triển, như Hoa Kỳ từ ngày lập quốc, và nhờ đó đã phát triển nhanh. Nhân quyền và dân chủ chưa bao giờ ngăn cản một dân tộc trở thành giàu mạnh. Đây là một tin vui vì nó chứng tỏ khả năng lớn của con người. Con người tự do có khả năng làm ra những phép mầu. Mặt khác, các quyền được có, dù không ai có thể phủ nhận tinh thần quảng đại của chúng, cần được quan niệm một cách dè dặt. Chúng ta chỉ có thể đòi hỏi nhiều ở nhà nước nếu ngược lại chúng ta chấp nhận cho nhà nước khá nhiều quyền. Càng đòi hỏi ở nhà nước bao nhiêu thì càng phải chấp nhận một nhà nước kềnh càng bấy nhiêu và không gian cá nhân càng bị thu hẹp bấy nhiêu. Và quyền lực đẻ ra tham nhũng và lạm quyền, với hậu quả là áp bức và nghèo khổ.

Nhà nước tốt nhất vẫn là một tối thiểu, chỉ còn lại vấn đề thế nào là tối thiểu, một vấn đề tế nhị. Phải hết sức thận trọng đối với nhà nước. Con người nói chung vừa mong manh vừa không thông thái. Nếu không được bảo đảm một không gian tự do cá nhân bất khả xâm phạm, nó có nguy cơ bị giảm thiểu đến chỗ không còn gì. Từ chỗ làm cho người dân, người cầm quyền rất dễ đi đến chỗ làm thay cho người dân, suy nghĩ thay cho người dân, quyết định những gì là tốt cho người dân, những gì người dân nên biết và không nên biết, phải làm và không được làm. Các quyền được có đã là lý cớ để các chế độ cộng sản, quân phiệt, phát-xít, quốc xã tước bỏ những quyền phải có, nghĩa là những quyền không bị, tạo ra những tai họa kinh khủng trong thế kỷ 20.

Chìa khoá để giải đáp bài toán này không phải là kỹ thuật mà là triết lý. Một lần nữa chúng ta không được quên một yếu tố căn bản: con người, với tất cả những khả năng, thiếu sót và yếu kém của nó. Con người có giới hạn cho nên không thể xây dựng ra được những xã hội tuyệt hảo. Những giá trị cao quí nhất thường mâu thuẫn với nhau. Chọn tự do tuyệt đối, chúng ta để cho kẻ mạnh đàn áp kẻ yếu, sói ăn thịt cừu; chọn bình đẳng tuyệt đối, chúng ta phải cấm kinh doanh để đừng ai giàu có hơn ai và đóng cửa các trường đại học để đừng ai thông thái hơn ai. Cũng thế, sáng tạo mâu thuẫn với ổn định, công lý không phải lúc nào cũng thể hiện được sự bao dung. Chúng ta luôn luôn phải thoả hiệp, đó là bắt buộc của loài người. Tìm thoả hiệp tối ưu là nghệ thuật và sự quyến rũ của hoạt động chính trị.

Nếu cần phải có một nguyên tắc cho hoạt động chính trị để đừng bị trôi giạt như người đi biển không la bàn thì ta có thể nói : con người phải được tôn trọng trước hết, xã hội sẽ phải làm tối đa cho mỗi thành viên trong chừng mực khả năng của nó. Nói khác đi, các quyền tự do căn bản, các quyền không bị phải được tôn trọng trước, các quyền được có sẽ ngày càng tăng, và mãi mãi tiếp tục tăng lên, cùng với sự gia tăng phồn vinh của xã hội. Một xã hội quảng đại nhất cũng chỉ có thể cho những gì nó có.

Tranh đấu cho nhân quyền

Một người bạn ở Mỹ rất tận tụy tranh đấu cho nhân quyền trong gần hai thập niên qua ghé Paris thăm tôi mùa hè này. Anh đặt câu hỏi: "Tại sao nhân quyền bị chà đạp tại Việt Nam như vậy mà chúng ta vẫn chưa có được một phong trào nhân quyền mạnh?".

Chính tôi cũng đặt một câu hỏi tương tự: "Tại sao chế độ cộng sản đã kéo dài ba mươi năm rồi mà chúng ta vẫn chưa hình thành được một tập hợp dân chủ có tầm vóc ?". Chắc chắn là dân tộc Việt Nam đã quá mệt mỏi vì nghèo khổ và vì đã trải qua một cuộc chiến dài và đẫm máu, nhưng một phần của câu trả lời có lẽ là chúng ta chưa nhìn rõ vấn đề. Chúng ta vẫn còn phân biệt nhân quyền và chính trị, đấu tranh cho nhân quyền và đấu tranh cho dân chủ, và do đó phân tán lực lượng. Nhân quyền bao giờ cũng là một vấn đề chính trị. Một tổ chức nhân quyền quốc tế như Amnesty International hoặc Human Rights Watch có thể phi chính trị, bởi vì họ bảo vệ nhân quyền cho các nước khác, nhưng cuộc tranh đấu vì nhân quyền, tức là vì tự do, dân chủ, cho chính nước mình không thể nào khác hơn là một cuộc đấu tranh chính trị. Cả hai tài liệu gốc rễ của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền -Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên Ngôn Quyền Con Người và Quyền Công Dân năm 1789 của Pháp- đều là thành quả của những đấu tranh chính trị rất khốc liệt.

Sau cùng, để tạm kết luận, chúng ta cần lưu ý tới ý nghĩa triết học của chính khái niệm "quyền". Quyền thuộc về luật và vì thế nó phải thẳng thắn, nó không thể chấp nhận thoả hiệp trên những điểm cơ bản, nếu không nó không còn là quyền. Quyền luôn luôn đối nghịch với thực tại ; nhân danh thực tại để hy sinh quyền là một thái độ đầu hàng hèn nhát; quyền đòi hỏi nhìn thực tại với con mắt của con người chứ không chấp nhận để nhìn con người từ thực tại ; sự phản kháng là cốt lõi của quyền. Quyền cũng không thể chấp nhận sự vô lý; nó là thành quả của trí tuệ và nó không thể tách ra khỏi sự hợp lý vì trí tuệ là nền tảng chính đáng của nó. Những gì đúng với khái niệm quyền lại càng đúng với quyền con người bởi vì đó là những quyền bắt buộc nhất. Trong cuộc tranh đấu cho nhân quyền, cũng là tranh đấu cho dân chủ, lập trường đúng nhất là không nhân nhượng, đòi hỏi thực hiện tức khắc và trọn vẹn các quyền tự do cơ bản. Đừng sợ rơi vào bẫy giáo điều, quyền con người chỉ là qui luật tự nhiên của sự sống.

Nguyễn Gia Kiểng

Phụ lục:

Tuyên Ngôn Phổ Cập về Quyền Con Người

Lời Mở Đầu:

Xét rằng việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và những quyền bình đẳng bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần tử trong đại gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hoà bình thế giới.

Xét rằng việc coi thường và khinh miệt nhân quyền đã đưa tới những hành động dã man làm phẫn nộ lương tâm nhân loại, và việc đạt tới một thế giới trong đó mọi người được tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng, được giải thoát khỏi sự sợ hãi và khốn cùng, được tuyên xưng là nguyện vọng cao cả nhất của con người.

Xét rằng điều cốt yếu là nhân quyền phải được một chế độ pháp trị bảo vệ để con người khỏi bị dồn vào thế cùng, phải nổi dậy chống áp bức và bạo quyền.

Xét rằng điều cốt yếu là phải phát triển những tương quan hữu nghị giữa các quốc gia.

Xét rằng, trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, các dân tộc đã tái xác nhận niềm tin vào những nhân quyền căn bản, vào phẩm cách và giá trị của con người, vào quyền bình đẳng nam nữ, cùng quyết tâm thúc đẩy tiến bộ xã hội và nâng cao mức sống trong một môi trường tự do hơn.

Xét rằng các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc để phát huy sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và những quyền tự do căn bản.

Xét rằng một quan niệm chung về tự do và nhân quyền là điều tối quan trọng để thực hiện trọn vẹn cam kết ấy.


Do đó, ĐẠI HỘI ĐỒNG LIÊN HIỆP QUỐC:

Công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền này như một tiêu chuẩn thực hiện chung cho tất cả các dân tộc và quốc gia, sao cho mỗi cá nhân và đoàn thể xã hội luôn nhớ tới bản tuyên ngôn này, nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này bằng học vấn và giáo dục, và bằng những biện pháp lũy tiến trên bình diện quốc gia và quốc tế, bảo đảm sự thừa nhận và thực thi trên toàn cầu các quyền tự do này cho các dân tộc thuộc các quốc gia hội viên hay thuộc các lãnh thỗ bị giám hộ.
Điều 1:

Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền. Mọi con người đều được tạo hoá ban cho lý trí và lương tâm và cần phải đối xử với nhau trong tình bằng hữu.

Điều 2:

Mọi người đều được hưởng tất cả những quyền và tự do nêu trong Bản tuyên ngôn này, không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay các quan điểm khác, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay địa vị xã hội.

Ngoài ra, cũng không có bất cứ sự phân biệt nào về địa vị chính trị, pháp quyền hay quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ mà một người xuất thân, cho dù quốc gia hay lãnh thổ đó được độc lập, được đặt dưới chế độ uỷ trị, chưa tự quản hay có chủ quyền hạn chế.

Điều 3:

Mọi người đều có quyền sống, tự do và an toàn cá nhân.

Điều 4:

Không ai phải làm nô lệ hay bị cưõng bức làm việc như nô lệ; mọi hình thức nô lệ và buôn bán nô lệ đều bị ngăn cấm.

Điều 5:

Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm.

Điều 6:

Mọi người đều có quyền được thừa nhận tư cách là con người trước pháp luật ở khắp mọi nơi.

Điều 7:

Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ như nhau không có bất cứ sự phân biệt nào. Tất cả mọi người đều được bảo vệ như nhau chống lại mọi hình thức phân biệt đối xử vi phạm Bản tuyên ngôn này cũng như chống lại mọi hành vi xúi giục phân biệt đối xử như vậy.

Điều 8:

Mọi người đều có quyền được các toà án quốc gia có thẩm quyền bênh vực theo pháp luật trước những hành vi vi phạm các quyền cơ bản do hiến pháp hay luật pháp quy định.

Điều 9:

Không ai bị bắt, giam giữ hay đày đi nơi khác một cách độc đoán.

Điều 10:
Mọi người, với tư cách bình đẳng về mọi phương diện, đều có quyền được một toà án độc lập và vô tư phân xử công bằng và công khai để xác định quyền, nghĩa vụ hoặc bất cứ một lời buộc tội nào đối với người đó.

Điều 11:

1. Mọi người, nếu bị quy tội hình sự, đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi một toà án công khai, nơi người đó đã có được tất cả những đảm bảo cần thiết để bào chữa cho mình, chứng minh được tội trạng của người đó dựa trên cơ sở luật pháp.
2. Không ai bị kết tội hình sự vì một hành vi hay sự tắc trách không bị coi là một tội hình sự theo quy định của luật pháp quốc gia hay quốc tế vào thời điểm đó. Cũng như không cho phép áp dụng hình thức xử phạt đối với một tội hình sự nặng hơn so với quy định của luật pháp lúc bấy giờ cho mức độ phạm tội cụ thể như vậy.

Điều 12:

Không ai bị can thiệp một cách độc đoán đối với cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hay thư tín của cá nhân người đó cũng như không bị xâm phạm tới danh dự và uy tín. Mọi người đều được pháp luật bảo vệ chống lại những hành vi can thiệp hoặc xâm phạm như vậy.

Điều 13:

1. Mọi người đều có quyền tự do đi lại và cư trú trong phạm vi lãnh thổ của mỗi quốc gia.
2. Mọi người đều có quyền rời khỏi bất cứ nước nào, kể cả nước mình, cũng như có quyền trở về nước mình.

Điều 14:

1. Mọi người đều có quyền tìm kiếm và được lánh nạn ở những nước khác khi bị ngược đãi.
2. Quyền này không được áp dụng trong trường hợp đương sự bị truy tố vì những tội không mang tính chất chính trị hay vì những hành vi đi ngược lại mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hợp Quốc.

Điều 15:

1. Mọi người đều có quyền nhập quốc tịch của một nước nào đó.
2. Không ai bị tước đoạt quốc tịch của mình hay bị khước từ quyền được thay đổi quốc tịch một cách độc đoán.

Điều 16:

1. Nam hay nữ đến tuổi thành niên đều có quyền kết hôn và xây dựng gia đình mà không có bất cứ một hạn chế nào về chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Họ có quyền bình đẳng trong việc kết hôn, trong cuộc sống vợ chồng và lúc ly hôn.
2. Việc kết hôn chỉ được tiến hành khi có sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của cả hai bên.
3. Gia đình là một đơn vị tự nhiên và cơ bản của xã hội và được xã hội và nhà nước bảo vệ.

Điều 17:

1. Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản của riêng mình hay chung với những người khác.
2. Không ai bị tước đoạt tài sản của mình một cách độc đoán.

Điều 18:

Mọi người đều có quyền tự do suy nghĩ, ý thức và tôn giáo, kể cả tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng, và tự do thể hiện tôn giáo hoặc tín ngưỡng dưới hình thức truyền bá, thực hành, thờ phụng hoặc lễ tiết, với tư cách cá nhân hay tập thể, công khai hay riêng tư.

Điều 19:
Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bầy tỏ quan điểm; kể cả tự do bảo lưu ý kiến không phụ thuộc vào bất cứ sự can thiệp nào, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận, tryền bá thông tin và ý kiến bằng bất cứ phương tiện thông tin đại chúng nào và không giới hạn về biên giới.

Điều 20:

1. Mọi người đều có quyền tự do họp hành và tham gia hiệp hội một cách hoà bình.
2. Không ai bị bắt buộc phải tham gia một hiệp hội nào.

Điều 21:

1. Mọi người đều có quyền tham gia vào chính quyền của nước mình, một cách trực tiếp hay thông qua những đại diện được tự do lựa chọn.
2. Mọi người đều có quyền được hưởng các dịch vụ công cộng của đất nước mình một cách bình đẳng.
3. Ý chí của nhân dân là cơ sở tạo nên quyền lực của chính quyền; ý chí này được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và thực sự, theo nguyên tắc bỏ phiếu phổ thông và bình đẳng và được thực hiện qua bỏ phiếu kín hoặc qua các thủ tục bỏ phiếu tự do tương tự.

Điều 22:

Với tư cách là thành viên của xã hội, mọi người đều có quyền được hưởng bảo hiểm xã hội cũng như được thực hiện các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá không thể thiếu đối với nhân phẩm và tự do phát triển nhân cách của mình, thông qua nỗ lực quốc gia, hợp tác quốc tế và phù hợp với hệ thống tổ chức và nguồn lực của mỗi quốc gia.

Điều 23:

1. Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn công việc, được hưởng điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi và được bảo vệ chống lại tình trạng thất nghiệp.
2. Mọi người đều có quyền được trả công ngang nhau cho công việc như nhau, không có bất cứ sự phân biệt đối xử nào.
3. Mọi người lao động đều có quyền được hưởng chế độ thù lao công bằng và thuận lợi đảm bảo cho sự tồn tại của bản thân và gia đình xứng đáng với nhân phẩm và được hỗ trợ thêm từ các hình thức bảo trợ xã hội khác, nếu cần thiết.
4. Mọi người đều có quyền thành lập và tham gia các tổ chức công đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.

Điều 24:

Mọi người đều có quyền nghỉ ngơi và giải trí, kể cả quyền được hạn chế hợp lý về số giờ làm việc và hưởng những ngày nghỉ định kỳ được trả lương.

Điều 25:

1. Mọi người đều có quyền được hưởng mức sống đủ để đảm bảo sức khoẻ và phúc lợi của bản thân và gia đình, về các mặt ăn, mặc, ở, y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết khác, cũng như có quyền được bảo hiểm trong trường hợp thất nghiệp, ốm đau, tàn tật, goá bụa, già nua hoặc thiếu phương tiện sinh sống do những hoàn cảnh khách quan vượt quá khả năng kiểm soát của mình.

2. Các bà mẹ và trẻ em cần được chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt. Tất cả trẻ em, sinh ra trong hoặc ngoài giá thú, đều được hưởng mức độ bảo trợ xã hội như nhau.

Điều 26:

1. Mọi người đều có quyền được học hành. Phải áp dụng chế độ giáo dục miễn phí, ít nhất là ở bậc tiểu học và giáo dục cơ sở. Giáo dục tiểu học là bắt buộc. Giáo dục kỹ thuật và ngành nghề phải mang tính phổ thông, và giáo dục cao học phải theo nguyên tắc công bằng cho bất cứ ai có đủ khả năng.
2. Giáo dục phải hướng tới mục tiêu giúp con người phát triển đầy đủ nhân cách và thúc đẩy sự tôn trọng đối với các quyền và tự do cơ bản của con người. Giáo dục phải tăng cường sự hiểu biết, lòng vị tha và tình bằng hữu giữa tất cả các dân tộc, các nhóm tôn giáo và chủng tộc, cũng như phải đẩy mạnh các hoạt động của Liên Hợp Quốc vì mục đích gìn giữ hoà bình.
3. Cha, mẹ có quyền ưu tiên lựa chọn loại hình giáo dục cho con cái.

Điều 27:
1. Mọi người đều có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hoá của cộng đồng, được thưởng thức nghệ thuật và chia xẻ những thành tựu và lợi ích của tiến bộ khoa học.
2. Mọi người đều có quyền được bảo hộ đối với những quyền lợi về vật chất và tinh thần xuất phát từ công trình khoa học, văn học và nhgệ thuật mà người đó là tác giả.

Điều 28:

Mọi người đều có quyền được hưởng trật tự xã hội và trật tự quốc tế trong đó các quyền và tự do nêu trong Bản tuyên ngôn này có thể được thực hiện đầy đủ.

Điều 29:

1. Mọi người đều có nghĩa vụ đối với cộng đồng là nơi duy nhất người đó có thể phát triển nhân cách của mình một cách tự do và đầy đủ.
2. Khi thực hiện các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ chịu những hạn chế do luật định, nhằm mục đích duy nhất là đảm bảo sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác cũng như đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự xã hội và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ.
3. Trong bất cứ trường hợp nào, việc thực hiện những quyền và tự do này cũng knông được đi ngược lại với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hợp Quốc.

Điều 30:

Không được phép diễn giải bất kỳ điều khoản nào trong Bản tuyên ngôn này theo hướng ngầm ý cho phép bất kỳ quốc gia, nhóm người hay cá nhân nào được quyền tham gia vào bất kỳ hoạt động nào hay thực hiện bất kỳ hành vi nào nhằm phá hoại bất kỳ quyền và tự do nào nêu trong Bản tuyên ngôn này.

Nguồn: ethongluan.org
Trần Huỳnh Duy Thức.(Ảnh: Dân Làm Báo)

Dân Làm Báo - Hành trình vào bản chất của Dân Chủ và Thịnh Vượng - Công trình chưa hoàn tất của anh Trần Huỳnh Duy Thức

Kính gửi: Dân làm Báo


Tôi là Trần Văn Huỳnh, cha của Trần Huỳnh Duy Thức.

Trong các tài liệu Thức viết mà gia đình tìm thấy sau khi Thức bị bắt, có một quyển sách đang được viết bằng tiếng Anh có tựa đề: HEWING QUEST FOR DEMOCRACY AND PROSPERITY (Hành trình vào bản chất của Dân Chủ và Thịnh Vượng). Công trình này vẫn chưa hoàn thành. Tuy nhiên tôi đọc thấy phần đầu của nó đề cập đến những vấn đề rất đáng quan tâm nên tôi đã dịch ra và gửi cho quý báo. Mong quý báo giúp phổ biến đến độc giả.

Xin cảm ơn và kính chào.

Trần Văn Huỳnh
Email: tranvanhuynh@hotmail.com 
Điện thoại: +84 90 3350117
***
Hành trình vào bản chất của Dân Chủ và Thịnh Vượng

Nên hiểu tính độc lập của một nhà nước hoặc dân tộc như thế nào? Nhận thức cho rằng nền độc lập có nghĩa là nhà nước của nó cầm quyền bởi một nhóm người cùng sắc tộc với đại đa số dân chúng còn tương đối phổ biến. Sự chấp nhận sai lầm rộng rãi như vậy giúp các chế độ chuyên chế lợi dụng để duy trì sự thống trị. Do vậy một sự hiểu biết đúng về một nền độc lập là rất thiết yếu để tránh cho một dân tộc khỏi bị lệ thuộc. Nó cũng sẽ đòi hỏi chúng ta suy nghĩ đúng về các khái niệm sức mạnh của cá nhân và tính cá nhân. Đề tài này sẽ dẫn đến nhiều nghiên cứu về dân chủ và thịnh vượng cùng với các qui luật của chúng.

THỰC DÂN HAY CHUYÊN CHẾ

Có rất nhiều chế độ chuyên chế đã cầm quyền một cách độc đoán đất nước mình nhiều thập kỷ nay. Hầu hết đều từ những người đã giữ vai trò quan trọng trong việc giải phóng dân tộc khỏi sự cai trị thực dân. Thành tựu trên danh nghĩa của họ là đã mang lại nền độc lập cho dân tộc mình. Nhưng nhìn vào cuộc sống thực tế của những người đang sống ở những nước này. Thật khó mà không nói rằng họ lệ thuộc nặng nề dù màu da và chủng tộc của họ giống với những kẻ cầm quyền chuyên chế.

Thực ra những người này chỉ đơn giản là thay đổi sự thống trị của thực dân bằng của họ. Thường thấy ở những nơi này hàng đống sự xâm phạm quyền con người, tự do và lợi ích riêng tư trên danh nghĩa của an ninh và lợi ích quốc gia. Những công trạng ''giải phóng dân tộc'' bị khai thác để bảo tồn sự chính danh của các chế độ áp bức này. Ở vài nơi nỗi thống khổ của dân chúng còn tệ hơn những gì họ đã phải trải qua dưới thời thực dân. Bình mới rượu cũ mà thôi.

ĐỘC LẬP CÁ NHÂN VÀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC

Sẽ không có sự độc lập nếu không có tự do. Và sẽ không có độc lập dân tộc nếu không có độc lập cá nhân. Điều này là chân lý. Vào giữa thế kỷ 19, Fukuzawa Yukichi - người được đánh giá là xuất chúng trong số những người sáng lập nên nước Nhật hiện đại - đã có một danh ngôn: ''Độc lập dân tộc nhờ độc lập cá nhân''. Ông chứng minh rằng nhờ có độc lập cá nhân mà một người không phải lệ thuộc vào sức mạnh của người khác. Nên chính nhờ sức mạnh cá nhân đó mới giúp một dân tộc cạnh tranh được với những dân tộc khác. Và chính tư tưởng đó đã biến nước Nhật thành một cường quốc trong vòng 30 năm từ sự lạc hậu nghèo nàn.

CÓ TỰ DO MỚI ĐỘC LẬP

Một cá nhân chỉ có thể độc lập nếu có đầy đủ tự do. Và chỉ khi nào quyền con người của một người được tôn trọng và bảo vệ đầy đủ bằng pháp quyền thì người đó mới có tự do hoàn toàn. Do vậy bản chất của nhà nước pháp quyền là một sự ủy trị hợp pháp để bảo vệ các quyền này và tự do cho từng cá nhân, từng người một. Trách nhiệm này phải được gìn giữ thiêng liêng như mục tiêu tối thượng của nhà nước đó. Không tuân theo quy tắc này sẽ gây ra sự xâm phạm tự do cá nhân nhân danh an ninh quốc gia, ổn định xã hội và trật tự cộng đồng như các chính quyền độc tài thường dùng để biện hộ một cách mơ hồ vì sự phát triển.

Những sự mơ hồ này trong thực tế dễ dàng trở thành những cái cớ để xâm hại an toàn của con người, tước đoạt nhân quyền và xúc phạm nhân phẩm một cách không nao núng để giành được đặc quyền cho những nhóm lợi ích hẹp hòi. Cách này sẽ chắc chắn làm cho người dân lệ thuộc vào những người cai trị bằng cách áp nỗi sợ hãi lên người bị trị. Không có tự do sẽ dẫn đến lệ thuộc bất chấp màu da và chủng tộc của những người cầm quyền. Sự phụ thuộc của cá nhân sẽ gây nên một quốc gia lệ thuộc mà không thể tránh được, ngay cả quốc gia đó không thuộc quyền tài phán của quốc gia khác.

SỰ UỶ TRỊ HỢP PHÁP

Canada và Úc theo chế độ quân chủ lập hiến, tôn Nữ hoàng Anh làm người đứng đầu nhà nước của họ. Nhưng ai có thể nói rằng họ là những dân tộc lệ thuộc? Khi nào người dân họ còn thích chế độ này thì nó còn tồn tại. Ngược lại, họ có thể bỏ phiếu để thay đổi thành chế độ cộng hòa, chẳng hạn, mà không có vấn đề gì. Họ hoàn toàn tự do lựa chọn chế độ chính trị nên dân tộc họ thực sự độc lập.

Nếu Barack Obama thắng cử tổng thống Mỹ, liệu người da trắng có tự xem họ là một chủng tộc lệ thuộc? Và người da đen sẽ tìm thấy sự độc lập của họ nhờ chiến thắng đó? Ai trả lời có sẽ thật là ngớ ngẩn. Sự uỷ trị chỉ hợp pháp khi nó được bầu chọn bằng một cuộc bầu cử tự do mà người dân, chính là những người ủy nhiệm, không bị sợ hãi và thiếu thốn để thực hiện quyền bỏ phiếu của mình. Đối với luật pháp cũng vậy. Jean Jacques Rousseau (+) đã viết trong tuyệt tác ''Khế ước xã hội'' của ông rằng: ''Bất cứ luật nào mà người dân không phê chuẩn trực tiếp thì vô hiệu và vô dụng - trên thực tế nó không đúng là luật''.

Tính hợp pháp của một sự ủy trị không liên quan đến chủng tộc, màu da, giới tính, v.v... hoặc công trạng đã qua hay tuyên bố ''vì dân'' của một đảng cầm quyền bằng tiếm quyền, v.v... Làm cho người dân hoặc khiếp sợ hoặc lệ thuộc kinh tế vào những người có quyền lực là cách mà một chế độ cường quyền nắm quyền để ép người dân phục tùng ý chí của nó. Do đó, nó không bao giờ là một sự ủy trị hợp pháp ngay cả nó chấp nhận quyền bầu cử của người dân trên danh nghĩa.

NHÂN QUYỀN, DÂN CHỦ VÀ THỊNH VƯỢNG

Đó là lý do mà Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền (UDOHR) tuyên bố và tin rằng con người chỉ thực sự tự do khi không phải sợ hãi và không bị thiếu thốn. Nhằm mục đích này, bản Tuyên ngôn đã được cụ thể hóa thành Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCE) nhằm bảo vệ và thúc đẩy các quyền cơ bản này trên toàn thế giới. Không phải ngẫu nhiên mà hầu hết các nước thuộc thế giới thứ nhất tôn trọng trước tiên và bảo vệ trên hết các quyền đó trong hiến pháp của họ một cách đầy đủ, và làm cho chúng có hiệu lực trong thực tế. Chính cách thức này đã đưa các quốc gia này trở thành những đất nước dân chủ và thịnh vượng nhất thế giới.

Các quyền này là thiêng liêng và do Tạo hóa ban cho, không phải do bất kỳ ai khác là con người hoặc bất cứ cái gì thuộc về con người. Do vậy ủng hộ các quyền này tức là tuân theo các qui luật tất yếu khách quan, chính là các luật của Tạo hóa. Con người có thể phát hiện và hiểu được các luật này nhưng không thể sáng tạo ra chúng theo ý muốn của mình. Nếu luật của con người mà không thuận theo các luật tương ứng của Tạo hóa thì sẽ không có tác dụng, và cuối cùng có thể sụp đổ.

TÍNH TOÀN VẸN CỦA CÁC QUYỀN CON NGƯỜI

Một máy bay sẽ không thể cất cánh nếu nó được thiết kế bởi những qui tắc không nghiêm ngặt tuân thủ luật vạn vật hấp dẫn, định luật Bernoulli và v.v... Ngay sau khi giành được chủ quyền từ Vương quốc Anh, người Ấn độ đã ủng hộ quyền chính trị cho nhân dân bằng một chế độ đa đảng. Nhưng quyền kinh tế của họ lại bị hạn chế một cách khắc nghiệt nên họ chỉ có được một sự tự do khuyết tật, vì vậy không tạo ra được một nền dân chủ thực chất. Do đó, họ chìm đắm trong cơ hàn cho đến khi họ hủy bỏ cơ quan cấp phép khổng lồ vào năm 1991, khởi đầu cho sự dân chủ trong hoạt động kinh tế. Hàng chục triệu người Ấn đã thoát khỏi sự bần cùng hóa từ đó, kéo theo các thành tựu khác về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, công nghệ, quốc phòng, v.v... Điều này giải thích vì sao Châu Phi vẫn còn đầy rẫy các dân tộc khốn khổ bất chấp sự tồn tại tràn lan lâu nay của rất nhiều đảng chính trị.

Trung Quốc và Việt Nam tạo ra một phiên bản khác về sự vi phạm tính toàn vẹn của các quyền con người. Hai nước này đã thừa nhận quyền kinh tế cho người dân nhưng vẫn tước đoạt không khoan nhượng quyền chính trị của họ, gây nên một kiểu tự do què quặt khác. Mặc dù mô hình này có thể tạo nên sự tiến bộ kinh tế và các thành tích ấn tượng về xóa đói giảm nghèo, nhưng nó cũng đồng thời nuôi dưỡng bất bình và suy thoái xã hội rồi nhốt chúng lại. Khi sự trầm trọng này trở nên mục ruỗng thì nó sẽ dẫn tới việc bộ máy chính trị tự dân chủ hóa hoặc sẽ kết thúc trong sụp đổ toàn diện về kinh tế, xã hội, chính trị và một chế độ bị lật nhào. Đây là tiến trình tất yếu vì nó phá vỡ sự toàn vẹn của các quyền con người vốn thuộc về luật của Tạo hóa. Dưới tác động của toàn cầu hóa và xã hội Internet, tiến trình này sẽ diễn biến rất nhanh, nhanh hơn đã từng chứng kiến trong thời gian chiến tranh lạnh dẫn đến sự tan rã của hệ thống Đông Âu và Liên Xô.

CÁC QUI LUẬT PHÁT TRIỂN

Sự phân tích bản chất của các trường hợp trên cho thấy: xã hội loài người sẽ phồn vinh khi con người có quyền tự do mưu cầu thịnh vượng cho riêng mình, và nhờ vậy cũng sẽ cho những người mà anh ta cần nhờ đến để đạt được mục đích của mình. Đây chính là qui luật căn bản của kinh tế thị trường do Tạo hóa làm ra thông qua tính ứng xử phổ quát của con người. Và một nền kinh tế thị trường chỉ vận hành tốt và ổn định trong một xã hội có đủ tự do. Xã hội đó chính là cơ chế tự động để đạt được trạng thái cân bằng của tất cả các phương diện kinh tế một cách hiệu quả. Adam Smith gọi cơ chế này là ''Bàn tay vô hình'' - cũng là một luật của Tạo hóa mà ông đã phát hiện và hiểu rõ để giúp phát triển việc nghiên cứu kinh tế.

Việc nghiên cứu chia kinh tế thành hai nhánh: kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc. Kinh tế học thực chứng nghiên cứu các qui luật tất yếu của các yếu tố kinh tế và tác động tương hỗ giữa chúng, tức là các thực tế khách quan của kinh tế. Còn kinh tế học chuẩn tắc nghiên cứu các kêt quả của hành động và quyết định kinh tế của con người theo quan hệ nhân quả từ các qui luật tất yếu trên. Chấp nhận kinh tế thị trường chỉ mới là sự áp dụng các qui luật này, nhưng chưa đủ. Nó còn đòi hỏi không thể thiếu một cơ chế để đảm bảo các quyết định kinh tế của chính phủ là vì đại chúng, vì đa số. Không có cơ chế này thì, do mục đích mưu cầu thịnh vượng, con người sẽ hướng động lực của mình nhằm thỏa mãn những người ra quyết định đang nắm quyền thay vì dân thường. Mối nguy đạo đức này có thể bị chỉ trích gay gắt nhưng nó không phải là chuyện bất thường, và bất chấp những đả kích nó vẫn tồn tại tràn lan như dịch bệnh và xói mòn bất kỳ xã hội nào không có một nền dân chủ đủ thực chất. Một hệ thống như vậy được gọi là chủ nghĩa tư bản thân hữu mà kết quả tốt nhất của nó tạo ra chỉ là một đất nước thu nhập trung bình và dậm chân ở cái bẫy đó.

BẢN CHẤT VÀ HÌNH THÁI CỦA DÂN CHỦ

Bản chất của dân chủ đơn giản chỉ là sự tuân theo các quyền con người và tuân thủ tính toàn vẹn của các quyền đó. Đó cũng chính là sự tuân thủ các qui luật tất yếu vì tính chất của quyền con người là do Tạo hóa tạo ra. Sự tôn trọng như vậy được thực hiện càng đầy đủ thì nền dân chủ đạt được càng thực chất. Bản chất này của dân chủ là không thay đổi theo bất kỳ yếu tố nào thuộc về con người như chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay quan điểm khác, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, sự giàu có, xuất thân, trình độ phát triển hoặc những trạng thái khác. Những yếu tố này chỉ ảnh hưởng đến hình thái của một xã hội dân chủ vốn chỉ là kết quả sinh ra từ sự vận động của các yếu tố đó dựa trên các luật của Tạo hóa, bao gồm cả quyền con người. Hình thái có thể thay đổi nhưng bản chất thì không. Hình thái phải là kết quả từ dưới lên và không nên là sự áp đặt từ trên xuống. Sự áp đặt như vậy đã chứa đựng bản chất chống dân chủ rồi.

Quan điểm về hình thái xã hội của con người chỉ có thể thành hiện thực một khi nó được thiết kế theo luật của Tạo hóa và nó phải thuyết phục được người dân tán thành một cách tự nguyện. Phác thảo một hình thái chủ quan, rồi ép uổng thô bạo người bị trị buộc họ miễn cưỡng chấp nhận nó như một lẽ phải chung duy nhất thì sẽ sinh ra một xã hội bất ổn triền miên. Lý do là khoảng cách giữa những chuẩn mực xã hội trên danh nghĩa và những cái tồn tại trên thực tế không ngừng gia tăng, gây ra sự sụp đổ niềm tin vì thất hứa. Đó là lúc cái hình thái phác thảo đó sẽ lụn bại mặc dù nó chưa bao giờ tồn tại trên thực tế giống như được phác thảo. Đây là những gì đã từng thấy từ Quốc xã ở Đức và Liên xô ở Nga.

ĐỘNG LỰC HAY SỢ HÃI

Khi một chính phủ phải thuyết phục người dân thì nó cũng phải tạo động lực cho họ. Người dân, đến lượt họ, sẽ tích tụ những xung lực phi thường để đẩy mạnh những gì chính phủ mong muốn hướng đến một vận mệnh tốt hơn cho dân tộc. Dù bất kỳ biểu hiện nào, một hình thái xã hội có thể thực sự tồn tại được trong cuộc sống sẽ luôn là hệ quả từ những hành động của dân thường tạo ra trên các luật của Tạo hóa. Hình thái đó có thể khớp với cái mà những người cầm quyền mong muốn chỉ khi nào họ làm cho ý chí của mình phù hợp với nguyện vọng của thường dân, và làm cho những luật mình mong muốn tuân thủ luật của Tạo hóa. Hiểu thấu lòng dân và hiểu rõ các qui luật tất yếu khách quan luôn là yêu cầu bức thiết của một xã hội dân chủ.

Thao túng quyền lực nhà nước để bắt dân thường phục tùng chủ tâm của một nhóm nhỏ sẽ tạo ra nỗi sợ hãi và làm cạn kiệt nguồn vốn con người như động lực, sáng tạo, niềm tin - là những giá trị thiết yếu nhất cho sự phát triển bền vững của một xã hội. Người dân phần nào có thể từ bỏ tự do của mình để đổi lấy việc sinh sống đến khi nào chính phủ có thể đảm bảo một sự phát triển kinh tế ổn định và phân phối thành quả của nó tương đối công bằng. Nhưng nhiệm vụ này là bất khả thi đối với các xã hội kém dân chủ. Khi nhiệm vụ này thất bại là lúc phải trả phí cho Tạo hóa vì đã vi phạm luật Tạo hóa. Phí đó là một chế độ bị lật đổ nhục nhã, và nhiều lúc là một cuộc cách mạng bạo lực đẫm máu. Một xã hội dân chủ không như vậy, ở đó người dân có thể thay đổi chính phủ một cách hòa bình.

TỪ SỢ HÃI ĐẾN LỆ THUỘC

Theo xu hướng tự nhiên, một chính phủ chống dân chủ luôn luôn phân phát nỗi sợ hãi để che ủ sự phàn nàn của những người dân cảm thấy phát ốm đối với sự quản lý của nó, và đàn áp những người bất đồng chính kiến nào phê phán sai lỗi của nó. Tuy nhiên nó cũng tự che ủ và bịt mắt chính mình trước những phản ánh của xã hội. Một chính phủ như vậy không thể xây dựng được một xã hội có thành tựu bền vững, mà là một xã hội cuối cùng sẽ suy tàn. Lý do là những người lệ thuộc thì không thể có năng lực để lãnh đạo nhân dân họ đi đến một nền độc lập dân tộc, mà chỉ đến một quốc gia phụ thuộc. Những kẻ độc tài và các chính phủ chống dân chủ thực sự là những người lệ thuộc mặc dù họ thường thể hiện uy quyền.

Một người độc lập thì không bao giờ lệ thuộc một cách thiếu suy nghĩ vào sự phê bình từ người khác, trong khi một người phụ thuộc thì sợ sự phê phán đó đến ám ảnh, tự kỷ rằng nó sẽ gây ảnh hưởng xấu đến mình. Anh ta không bao giờ đủ tự tin để hiểu rằng người ta nghĩ thế nào về mình chỉ hoàn toàn là hệ quả của chính cách hành xử của anh ta, chứ không phải của những người gay gắt chỉ trích mình. Đây đúng là đầu óc của những kẻ lệ thuộc mà khi nó thuộc về những người đang nắm quyền lực thì sẽ luôn dẫn đến sự đàn áp những người bất đồng chính kiến, sự đè nặng lên người dân bằng nỗi sơ hãi để che đậy sự yếu đuối của mình. Những kẻ cường hào che giấu tính hèn nhát của mình bằng sự tàn bạo. Bạo chúa Saddam Hussein đã lộ rõ sự đê hèn khi bị bắt lúc trốn chạy.

 HÀNH TRÌNH VÀO BẢN CHẤT CỦA DÂN CHỦ VÀ THỊNH VƯỢNG

Chế độ của Saddam đã bị lật đổ mấy năm nhưng nền độc lập cho quốc gia Iraq vẫn chưa có. Đấy không phải vì sự chiếm đóng của Mỹ. Điều đó chỉ có được khi người Iraq có ý thức tự tin để xây dựng sự độc lập cá nhân cho mình để làm cho dân tộc họ độc lập. Đây là cái BẮT BUỘC cho tất cả dân tộc trên thế giới để thực sự được tự do và độc lập nhằm có được dân chủ và thịnh vượng. Dưới 1/7 dân số thế giới được sống trong những đất nước như vậy trong khi hơn một nửa vẫn đang vật lộn với nghèo đói. Phong trào giải phóng dân tộc sau Thế chiến thứ II đã lớn mạnh và hoàn thành hơn nửa thế kỷ rồi nhưng vẫn chưa mang đến tự do và độc lập được cho nhiều nước để trở nên dân chủ và thịnh vượng. Mà hầu hết đã kéo theo các chế độ toàn trị; chính phủ mị dân; sự tước đoạt hoặc thu hẹp các quyền và tự do của con người; những người dân sợ hãi và lệ thuộc; sự nghèo túng và thậm chí là chết đói.

Lục tìm lịch sử thế giới về dân chủ và thịnh vượng trải dài từ thời La Mã cổ đại đến đến nay, và đào sâu vào bản chất của các phạm trù này để nắm được những bản chất cốt lõi của chúng nhằm hiểu rõ các qui luật tự nhiên liên quan. Và áp dụng các qui luật này nhằm tìm ra những con đường dẫn đến tự do, độc lập, dân chủ và thịnh vượng cho các quốc gia một cách bền vững và nhanh nhất chính là tham vọng của quyển sách này - Hành trình vào bản chất của Dân chủ và Thịnh vượng.

Quyển sách sẽ tìm hiểu căn nguyên của các phạm trù trên trong mối liên hệ với bản chất của một nhà nước pháp quyền và các hình thái khác nhau của nó, cũng như vai trò của một xã hội dân sự bên trong nó để đảm bảo người dân sống theo luật nhằm làm nó phát huy tác dụng. Và làm sao để khuyến khích tự do cá nhân trong lúc cân bằng nó với các giá trị phổ quát chung thay vì đánh bại chủ nghĩa cá nhân.

Quyển sách tin rằng những con đường như trên sẽ giúp duy trì hòa bình và ngăn ngừa chiến tranh cho thế giới.

Tác giả : Trần Huỳnh Duy Thức
Người dịch :  Trần Văn Huỳnh

(+) Một triết gia, nhà văn, nhà soạn kịch người Giơ-ne-vơ thuộc trường phái lãng mạn hồi thế kỷ 18. Triết lý chính trị của ông đã ảnh hưởng đến cuộc cách mạng Pháp.
Anh Trần Huỳnh Duy Thức

***
Bản tiếng Anh :

Original copy in English:
HEWING QUEST FOR DEMOCRACY AND PROSPERITY
How should the independence of a state or nation be understood? The perception which attributes the independence means its state is ruled by a group of people who have the same race with the vast majority's is rather widespread. This wrong embracing helps autocracies capitalized on it to maintain their hegemonies. A correct discernment of the independence, therefore, is very crucial to prevent a nation from dependency. It will too require us to think in right ways about the notion of personal strength and individuality. This theme will lead to many studies of democracy and wealth, and their principles.
COLONY OR AUTOCRACY
There are scads of autocracies who have arbitrarily ruled their countries for some decades. Most of them are the ones who played their important roles of the national liberations from colonies. Their nominal achievement were bringing the independence to their nations. But looking into the defacto life of those who live in these countries, it is too hard not to say what a dependent are they though their colors and races are the same with the absolute rulers'.
Those despots, in fact, simply changed the colonies' sways by theirs. There commonly finds a multitude of violations of human rights, freedom and personnel interests in the name of national security and sakes. The merits of ''national liberation'' are exploited to preserve the legitimacy of these repressive regimes. In some places the popular griefs and sufferings are even worse than what they had undergone in the colony time. Bottle changed so did not liquor.
PERSONAL INDEPENDENCE AND NATIONAL INDEPENDENCE
There will be no independence if there is no freedom. And there will be no national independence if there is no personal independence. This is the absolute truth. In the mid of 19th century, Fukuzawa Yukichi who has been credited as the eminent one among the founders of modern Japan made a famous maxim: ''National independence through personal independence''.
He justified that through personal independence, an individual does not have to depend on the strength of another. So it is that personal strength helps build a nation to rival all others. And it was this thought that turned Japan into a great power country within 30 years from a poor backwardness.
FREEDOM BEFORE INDEPENDENCE
An individual is not able to be independent if she or he doesn't have full freedom. And only when a person's human rights are fully respected and protected by the rule of law can she or he gain her or his freedom utterly. Therefore a rule-of-law state intrinsically means a legitimate mandate to protect these rights and freedom for every individual, one by one. This responsibility must be enshrined as the ultimate goal of that state. Failing to abide this rule will cause encroachment of individual freedom in the name of national security, social stability, public order that, in vague ways, are usually used by many despotisms to argue for development.
The ambiguity, in fact, easily becomes the pretext to impinge on human security, derogate human rights and offend human dignity relentlessly to gain the prerogative for a narrow interest group. This will definitely end up making the dependence of people on the rulers by imposing fear over the subjects. No freedom leads to dependence no matter what color and race is of the rulers, personal dependence unavoidably causes dependency even if its nation is not under the other country's jurisdiction.
LEGITIMATE MANDATE
Canada and Australia follow the constitutional monarchy system that crowns the Queen of the U.K as their head of state. But who can say that they are dependent nations? As long as their peoples like this system it just exists. On the contrary, they can vote to change the system, for instant, to the republic one without problem. They are completely free to choose their political system so their nations are truly independent.
If Barack Obama wins the presidential election in the US whether will the white see themselves as a dependent race? And will the black find their independence from that victory? One who answers yes will look very cock-eyed. A mandate is legitimate only when it is voted by a free election in which the peoples, namely, mandators are fear-free and want-free to cast their ballots. And so is the law. Jean Jacques Rousseau (+) has written in his magnum opus Social contract: ''Every law the people have not ratified in person is null and void - is, in fact, not a law''.
Legitimacy of a mandate knows neither race, color, sex, etc... nor birth,  accomplishment, ''for people'' manifesto of a party ruling by impingement, etc... Making the people either dreaded or economically contingent on the persons in power is the way that a brute tyranny wield to bend people to its strong will. It thereat is never a legitimate mandate even though it accepts the peoples' franchise nominally.
HUMAN RIGHTS, DEMOCRACY AND PROSPERITY
That's why The Universal Declaration Of Human Rights (UDOHR) proclaims and holds that a man just has freedom when he gets not only freedom from fear but also freedom from want. To this end, it has been concretized into the International Covenant on Civil and Political Rights (ICCPR) and the International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights (ICESCR) to protect and promote these fundamental rights worldwide. As it was not happened on, most of the first world countries firstly respect and ultimately protect those rights in their constitutions fully and enforce them in reality. This was the way that has led these nations to the most democratic and prosperous countries on over the world.
Those rights are sacred and endowed by The Creator,  not by anyone else who is a human being or anything belongs to human. Therefore upholding these rights means observance of the objective and natural principles, so called The Creator's laws that human can discover to understand but can not create as he desires. If a human law does not conform with the correspondent Creator's laws, it won't work well and could collapse eventually.
INTEGRITY OF HUMAN RIGHTS
An airplane will not be able to take off if it is designed by the rules that do not thoroughly obey the Universal law of gravitation, Bernoulli's law and so on. Right after retrieving their sovereignty from the U.K, Indian upheld the political right for peoples by a multi party system. But their economic right was severely restricted so they got a hamstrung freedom that would not make a gist democracy. That's why they had immersed in the numbing poverty until they repealed the mammoth permit raj in 1991, initiating the democracy in economic activities. Tens of millions of Indian have been lifted out of impoverishment since then, bringing about a series of other achievements of economy, politics, society, culture, technology, defense, etc ... This tells why Africa is still rife with wretched nations despite of their long existence of repletion of political parties.
China and Vietnam make another version of infringement on the integrity of human rights. The two countries have recognized the economic right for their peoples but still unrelentingly dis posses their political rights, occasioning another cripple freedom. This model, though, can deliver economic progress and impressive result in combating poverty it simultaneously nurtures social grievances, and decadences and pen them up. When this deterioration comes to fester it will either lead the political body to democratize itself or end up collapse of all economy, society and politics and an upended regime. This is the inevitable evolution because it breaks the integrity of human rights that belong to The Creator's law. Under the clout of globalization and Internet society, this evolution progresses very fast, sooner than ever seen in the cold war time that marshaled to the disintegration of East European and USSR system.
PRINCIPLES FOR GROWTH
The rationale of above cases shows that human society will thrive when a man entitles to liberally pursue wealth for his own and, thank to his pursuance, for others who he needs to have recourse for his purpose. This is a basic principle of market economy that is made up by The Creator through the universal behavior of human being. And that a market economy works well and steadily only in a sufficient freedom society which is the automatic mechanism to reach the equilibrium of all economical aspects efficiently. Adam Smith called this mechanism as the ''Invisible hand'' which is also a Creator's law that he had found and unraveled to help develop economic study.
The study divides economic by two branches: positive economics and normative one. The first one studies the natural principles of economic factors and the mutual effects among them, i.e the economic objective realities while the second one studies the results of human's economic actions and decisions as causalities upon the above natural principles. Accepting market economy means an applying these principles only, yet it is not enough. It indispensably requires an additional mechanism to assure the governmental economic decisions are for the mass, the majority. Without this, man will head his drive, for his purpose of pursuing wealth, to content the decision makers, who are in governance instead of the layman. This moral hazard can be vehemently criticized but it is not abnormal and will, despite of vitriols hurling to it, pandemically exist and undermine any society that has not a substantial enough democracy. Such a system like this is termed as the crony capitalism that can go about as far as a middle income country and stand at that trap.
SUBSTANCE AND FORM OF DEMOCRACY
The substance of democracy is simply the observance of human rights and their integrity. It is that the compliance with the natural principles because human rights are attributed by The Creator. The more completely is observance enforced the more substantial is democracy gained. This substance of democracy does not vary because of any factor that belongs to human such as race, color, sex, language, religion, political or other opinion, national or social origin, property, birth, stage of development or other status. These things just exert an influence on the form of a democratic society that is inherently the causal result from the motion of them based on The Creator's laws including human rights. The form can vary but the substance. It must be a bottom-up result and should not be a top-down imposition that contains the anti-democratic essence already.
Human's view of social form is just able to set into existence only when it is designed upon The Creator's laws and it must persuade the peoples to subscribe to it voluntarily. Designing a subjective form then roughly forcing the subjects to grudgingly accept it as an only conventional wisdom will produce a constantly instable society because the gap between its nominal norms and the ones in reality increasingly grows, causing broken promise tumble of faith. Now that this designed form would crumble although it never exists defacto as designed. This is as what have seen like. the Third Reich in Germany and USSR in Russia.
MOTIVE OR FEAR
When a government must convince its peoples it must also motivate them. The peoples shall, by their turn, build up tremendous impulses to push what their government wants towards the better form of life. By all appearances, a social form that might literally exist in life is always a causality of the commons' actions on the creator's laws. The form may match what the governing persons want only if they match their will with the commons' will and make their desirous laws compliant with the creator's laws. Empathy of people desire and unraveling the objective natural principles are always the sine qua non in a democratic society.
Wielding state power to inflict the commons bending to a small group's willfulness would produce fear and drain resource of human capital such as motive, creativity, faith which are the most essential values for sustainable development of a society. People may kind of give up their freedom in return for their living business as long as their government can assure a stable economy growth and distribute it relatively fairly. But this mission is impossible with a low democratic society. When it fails is the time that The Creator takes His toll for breaching His laws. The toll is a humiliatingly overthrown regime and, at times, a violently bloody revolution. Not so is with a democratic society where people can change their government peacefully.
FROM FEAR TO DEPENDENCY
An anti-democratic government always, as its own disposition, delivers fear to muffle the complaints of peoples who criticize its flaws. It, however, also muffles and deludes itself, blinding its eyes before the society's reflections. Such a government can not build an unshakably viable society but an eventually moribund one. This is because dependent persons are not capable to lead their peoples to a national independence, but to a dependency. Dictators and anti-democratic governments are truly the dependent ones though they usually show up their powerfulness.
An independent man is never thoughtlessly contingent on other's critiques while a dependent is obsessively scared with them, wishfully thinking that they would cast an ugly shadow on him. He is never self-confident enough to understand that how people thinks of him is just the consequence of his own behaviors, not of other who fulminates against him. This is literally an adjunct's mind set that, when it appertains to ones who in the saddle, always conducts to repressions against their dissidents, saddling their peoples with fear to gloss over their feebleness. The bullies hide their cowardice by cruelties. The tyrannical Saddam Hussein exposed his dastardliness being caught when fleeing.
HEWING QUEST FOR DEMOCRACY AND PROSPERITY
Saddam's regime has been toppled for years yet an independence of Iraq hasn't come. This is not because of the US occupation. It just happens when the Iraqi are consciously self confident to build their own personal dependence so as to make their nation an independent. This is the MUST for all nations around the world to be truly free and independent in order to have democracy and prosperity. There are less than 1/7 worldwide population living in such countries like this while more than a half still struggling with poverty and want. The movement of national liberation after World War II had thrived and achieved more than half a century ago yet it has not brought freedom and independence to many countries in order to be democratic and prosperous. But mostly brought about totalitarianisms; demagogies; deprivations or curtailments of human rights  and freedom, frightened and dependent peoples; poverties and even famines.
Questing the world's history of democracy and prosperity stretching from the ancient Roman time to now, and hewing these categories to distill their essential substances so as to unravel their relevant natural principles. And applying these principles to find the fastest and sustainable paths to freedom, dependence, democracy and prosperity for nations is the ambition of this book - Hewing Quest for Democracy and Prosperity.
The book is about to understand the rationale and genesis of above categories, in the relations with the substance of a rule-of-law state and its various forms, as well as the role of a civil society inside it to assure the peoples playing by the rules to make it works. And how to encourage individual freedom while countervail it with the collective and universal values instead of to defeat the individualism.
The book believes that such above paths will help maintain peace and prevent war for the world.
-----------------
(+) Eminent Genevan philosopher, writer and composer of 18th-century Romanticism. His political philosophy influenced the French Revolution (1789).
Nguồn: Blog Dân Làm Báo vn
Bài đăng cũ hơn Trang chủ
Loading

Việt 1 Radio - www.vietoneradio.com

  • Recent Posts
  • Video Youtube

Khát Vọng Tuổi Trẻ Video

    khatvongtuoitre.net

Lưu trữ Blog

Khế Ước Xã Hội    Hiến Pháp Trị Là Gì
 
Pháp Luật Là Gì?    Mơ Làm Thủ Tướng Chính Phủ
 
facebook khatvongtuoitre.net
© 2012 Khát Vọng Tuổi Trẻ. All rights reserved.
Provided by blogger