![]() |
| (Ảnh: DLB) |
Vũ Đông Hà (danlambao) - Ngày 19 tháng 08 năm 2010 khi bà Pratibha Patil, Tổng thống Ấn Độ trao huy chương Fields, giải thưởng cao quý nhất trong lĩnh vực toán học cho GS Ngô Bảo Châu tại lễ khai mạc Đại hội Toán học thế giới tổ chức ở Hyderabad thì Ngô Bảo Châu đã không còn là một giáo sư toán bình thường; anh đã trở thành niềm tự hào của nhiều người Việt Nam. Cùng lúc đảng lên kế hoạch để khai thác nhằm biến anh thành một sản phẩm của bộ máy tuyên truyền của đảng.
Google "Ngô Bảo Châu + giải thưởng" có đến 2 triệu 8 kết quả tìm kiếm. Khắp nơi trên các trang mạng người ta thấy hằng hà sa số những nhan đề, câu viết đại loại như "Ngô Bảo Châu làm rạng danh người Việt", "Ngô Bảo Châu là một ngôi sao sáng trên vòm trời toán học VN”, "Đây là niềm tự hào của người Việt Nam nói chung, của thế hệ trẻ Việt Nam nói riêng, khi trí tuệ Việt vươn lên đỉnh cao của khoa học nhân loại và được khẳng định trên trường quốc tế...", "Trung Quốc, với 1,3 tỉ dân, cũng chưa có nhà toán học nào giành được vinh dự khoa học cao quý ấy. Hàn Quốc, Singapore mặc dù khoa học và công nghệ phát triển hơn ta rất nhiều nhưng vẫn chưa có ai đoạt Huy chương Fields"...
![]() |
| (Ảnh: DLB) |
Ai cũng muốn... "cưới" anh. Lão "chú" rễ già nua cộng sản nhiều tiền lắm của hồi môn muốn anh trở thành cô dâu thứ n để tăng phần danh giá. Những người không đảng tịch, nghèo xơ xác, không có gì ngoài lòng yêu nước thương nòi cũng muốn... anh đưa em đi về, về quê hương yêu dấu.
Vì thế...
Ông trùm đảng viên đang chiếm ngự ghế thủ tướng ký văn thư chính phủ yêu cầu móc ngay 12 tỷ tiền thuế của dân tặng gấp anh căn hộ cao cấp 160 m2 nằm trong tòa nhà cao tầng Vincom ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Ông trùm phó thủ tướng tóc gió thôi bay đại diện nhà trai xách dùi đến thăm để sau đó báo lề đảng gõ trống rầm rầm.
![]() |
| (Ảnh: DLB) |
Yên bề với căn hộ 12 tỷ, ngôi biệt thự 3 triệu đô, chú rễ già nua móc tiếp 650 tỷ tiền mồ hôi xương máu của bá tánh mở cửa tiệm mang tên Viện Toán cao cấp cho cô dâu danh giá. Tiền chùa nên chú rễ thoải mái tỏ tình yêu không điều kiện: không yêu cầu Viện phải nghiên cứu cái gì, việc sử dụng số kinh phí trên như thế nào là quyền của cô dâu.
Chưa đủ, Tập đoàn Tuần Châu đã tình cho không biếu không ngôi biệt thự trị giá 3 triệu USD cho Viện nghiên cứu cao cấp về Toán và đại diện nhà trai đến dự lễ trao của hồi môn là quan to một thời Lê Khả Phiêu, nguyên là Tổng bí của đảng.
Toàn bộ các chương trình dạm hỏi đều có sự hỗ trợ phèng la của truyền thông lề chú rể. Cô dâu Ngô Bảo Châu có muốn hay không muốn thì hình ảnh, sự kiện ân cần, thương yêu, trọng vọng của nhà trai đối với nàng cũng đã hiện diện khắp nẻo đường báo giấy báo mạng Việt Nam, từ mũi Cà Mau đến Ải đã mất.
Phía bên kia lề đường, anh được nhắc lại là người đã từng ký tên vào bản kiến nghị Boxit. Tin tức về việc anh đã gửi một bức thư kiến nghị về dự án Bauxit ở Tây Nguyên vào ngày 29 tháng 5, 2009 với nội dung đề cập đến chính sách thực dân mới của chính quyền Trung Quốc về khai thác khoáng sản trên toàn cầu và đặc biệt là tại Tây Nguyên, với lời cảnh báo: "phần có hại thì cầm chắc, phần có lợi thì mong manh" được lan truyền trên cộng đồng mạng.
Câu phát biểu của anh sau vụ án xử Ts Cù Huy Hà Vũ ngày 4 tháng 4, 2011: "Có cố tình làm mất thể diện quốc gia, chắc cũng khó mà làm hơn mấy ông bà này" đã được cộng đồng mạng hoan nghênh xem là một quan điểm của người trí thức phản biện và lên tiếng về hành vi của các quan chức cộng sản đang cầm búa liềm công lý.
...
Giữa những lôi, kéo, giựt, giành... nhớ lại lời anh viết trên blog cá nhân ngay sau khi nhận giải thưởng Fields: "Có một vài bác không quen, bình thường cũng tỏ ra rất hiểu biết, lần này cứ thắc mắc về chuyện NBC là lề trái hay lề phải. ''Xin thưa, bám theo lề là việc của con cừu, không phải việc của con người tự do.''
Vậy là... hình như... anh quyết không... cưới đứa nào. Lề trái cũng cừu, lề phải cũng cừu, lề đảng cũng cừu, lề dân cũng cừu. Anh muốn anh là người tự do. Không cừu. Không lề.
Nhưng cuộc đời thì xám xịt và không trắng đen, không rõ ràng như những phương trình toán học logic mà anh ngày đêm ôm ấp. Nó rắc rối, bí hiểm, lươn lẹo, âm mưu chằng chéo, nhỏ nhen gấp ngàn lần cái công trình vĩ đại "Bổ đề toán học cho các nhóm" dài 100 trang của anh. Cuộc đời này, muốn làm cừu cũng chẳng dễ mà để làm người cũng lắm công phu.
Anh tự do không bám-theo-lề nhưng anh lại bế-theo-làm cái căn hộ 12 tỷ và cái viện mần-gì-mặc-kệ-nó trị giá 650 tỷ ở bên lề đường mang tên nguyễn-tấn-đảng đã làm người ta sờ cằm tìm tóc, sờ óc tìm râu, nghĩ lại và xét lại những câu nói của anh. Trong thâm tâm anh tin rằng đó là sự quan tâm, chiêu hiền đãi sĩ của nhà nước dành cho một trí thức danh giá như anh hay là một âm mưu tuyên truyền đánh bóng chế độ mà anh trở thành nạn nhân bất đắt dĩ? Chỉ có anh mới có tư cách để trả lời. Phần dư luận thì theo tùy góc nhìn của mỗi người và cảm giác thương ghét giận hờn dành cho anh, nhưng nếu chịu khó rà lại toàn bộ chính sách dùng người của đảng, xuyên suốt chiều dài lịch sử bi ai của thành phần trí thức đi không thấy phố thấy nhà chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ thì không khó để tìm ra kết luận khách quan.
Anh tự do không bám theo lề nhưng việc anh từng ký tên vào kiến nghị boxit, từng phán câu "Có cố tình làm mất thể diện quốc gia, chắc cũng khó mà làm hơn mấy ông bà này" đã làm nhiều người khác không đứng ở lề đường mang tên đảng vẫn còn hy vọng ở anh nhảy qua đứng chung bên này lề. Niềm hy vọng cần thiết và hiểu được trong một đất nước quá nhiều tuyệt vọng, trong một xã hội mà con người đang cần những biểu tượng thế giá lên tiếng phản biện. Anh lại đang là niềm hãnh diện của đất nước, là ngôi sao trên vòm trời toán học của nhân loại, anh lên tiếng thì bố ai dám bỏ 2 bao cao su đã quá sử dụng vào thùng rác của anh!?
Vậy thì không theo lề nào nhưng ở lề nào anh cũng có ít nhiều niềm tin yêu và hy vọng. Tuy vậy, theo thời gian, thái độ không lề của bổ đề toán học đem vào đời thường với những giả thuyết quyết định nhưng phụ thuộc vào cảm xúc của con người đã, ở một mức độ nào đó, dưới mắt nhìn đầy cảm xúc của dư luận, cộng với thực tế xảy ra, đã làm nảy sinh hình ảnh đôi chân đi hàng hai, chàng hảng giữa hai lề trong đầu của một số người. Hình ảnh đó nó nằm yên, phảng phất, ẩn hiện cho đến khi bà con ta đọc bài phỏng vấn của báo Tuổi Trẻ "Giáo sư Ngô Bảo Châu: Bạn trẻ vẫn đầy niềm tin tương lai". Và nó đã làm "sùng sục" cộng đồng mạng.
Anh đi lề một:
- Tôi không đồng ý với việc coi phản biện xã hội như chỉ tiêu để được phong hàm “trí thức”. Đến bao giờ chúng ta mới thôi thi đua để được phong hàm “trí thức”?
Đối với tôi, trí thức là người lao động trí óc. Cũng như những người lao động khác, anh ta cần được đánh giá trước hết trên kết quả lao động của mình. Theo quan niệm của tôi, giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội.
Thử hỏi ai sướng rên, ai bức xúc khi chỉ đọc câu này trong lúc cả nước đang sục sôi mọi thứ - từ tư cách nhà cầm quyền, chuyện biển đảo, chuyện công dân biểu tình và cuối năm lại sôi sục hơn với câu chuyện đầy oan khiên và nước mắt của người nông dân Đoàn Văn Vươn?
Rồi anh đi lề hai:
Mặt khác, cần trân trọng những người trí thức, hoặc không trí thức, tham gia công tác phản biện xã hội. Không có phản biện, xã hội đã chết lâm sàng.
Không có phản biện, xã hội đã chết lâm sàng. Hoan hô anh luôn.
Thử dùng phương trình toán học cơ bản không bổ cụng không đề, 2 lề nhập một:
A: giá trị trí thức không liên quan đến phản biện
B: không có phản biện xã hội chết lâm sàng
A + B = C
Trong đó C = xã hội có lâm sàng hay không chẳng ăn nhậu gì đến trí thức.
Kết quả là gì ai cũng biết. Cộng đồng mạng sôi sùng sục vì mang cảm giác anh là kẻ... phụ tình, cô dâu danh giá, trẻ trung, xinh đẹp đang có vẻ như lọt vào vòng tay của chú rễ già nua nhưng giàu có với của hồi môn 667 tỷ đồng Việt, 3 triệu đô Mỹ đã dâng cho nhà gái.
*
Công bằng mà nói, nếu không có giải thưởng Fields thì có lẽ anh nói gì thiên hạ cũng mặc kệ anh. Cả đảng lẫn dân. Anh ở lề nào, không lề nào thì cũng chẳng ai màng. Nhưng sau giải thưởng Fields, sau màn chiêng trống rầm trời của báo đảng, dưới ánh sáng của cuộc đời mà anh là một phần tử không thể tách rời, và dù anh có muốn hay không anh đã trở thành:
Một niềm hãnh diện của đất nước Việt Nam.
Một công cụ tuyên truyền của guồng máy độc quyền cai trị.
Cũng công bằng mà nói nếu anh không nhận những "sự hỗ trợ quý báu của đảng và nhà nước" bằng tiền của dân thì lời nói của anh chắc cũng ít bị đem lên bàn mổ một cách kỹ lưỡng như thế.
Cũng không thể nói anh xung phong, sẵn sàng trở thành sản phẩm tuyên truyền của chế độ khi anh nhận những hỗ trợ ấy.
Thôi đành xem đó là số phận của anh mà anh đã góp phần tạo nghiệp - chữ tài đi với chữ tai một vần. Chữ tai đó, nếu anh xem là tai họa thì cũng không sao. Có là bao so với cái TAI mà người nông dân Đoàn Văn Vươn và gia đình đang hứng chịu. Có thấm gì trong cái HỌA cả dân tộc Việt Nam đang gặp phải.
Bây giờ, như số phận của nhiều trí thức Việt Nam khác, anh cũng có sự "tự do"chọn lựa: (1) anh là đứng về quyền lợi và khát vọng của nhân dân hay (2) chấp nhận là một con ốc hay công cụ cho mục tiêu tuyên truyền của guồng máy cai trị.
Chọn lựa nào, chỉ có anh mới biết rõ. Vẫn có thể là chọn lựa không lề như đã từng và lương tâm anh là tấm gương phản chiếu rõ nhất, cho thấy anh đang đứng ở đâu trên mảnh đất khốn khổ này. Còn lại đều là những phán xét chủ quan của dư luận đặt lên anh, dựa vào vài lời anh nói và vài điều anh làm. Và đây là trích đoạn một số điều anh vừa mới nói trên trang blog của anh:
...
11. GS ghét nhất điều gì?
Sự hèn nhát.
13. Điều mà GS học hỏi được nhiều nhất sau những năm sống và làm việc ở nước ngoài?
Một tấm lòng rộng mở.
17. Cho đến bây giờ, một triết lý sống mà GS luôn theo đuổi là?
Sống cho đẹp.
19. Theo GS, tố chất nào cần có ở một người trẻ?
Sự can đảm và một tấm lòng rộng mở.
26. GS nghĩ gì khi một bộ phận xã hội (trong đó có trí thức) đang vô cảm với những nỗi đau khổ của người khác (tình trạng vô cảm)?
Tôi nghĩ rằng cái còn nguy hiểm hơn sự vô cảm và cũng có thể là một nguyên nhân của sự vô cảm đó là việc sức mạnh, thường là đồng tiền, được coi là thước đo duy nhất cho mọi hoạt động và từng cá nhân trong xã hội.
27. GS có đồng ý định nghĩa, trí thức trong việc không để xã hội “ngủ”?
Người trí thức có nhiệm vụ quấy rầy khi những người khác ngủ trong những định kiến của mình.
28. Theo GS, đâu là phẩm cách quan trọng của một trí thức?
Trí thức cần tinh thần cầu thị, ham học, đầu óc phân tích, lập luận sắc bén. Người trí thức cần thêm sự can đảm và một tấm lòng rộng rãi, nhân hậu.
29. Trí thức cần gì nhất, theo GS?
Tự do.
...
Nói và sống: đi về có cùng một nghĩa như nhau?
Bằng niềm tin và hy vọng rất mong anh sẽ sống đúng như những gì anh vừa nói vì đất nước này cần lắm những con người đầy thông minh và trí tuệ như anh.
![]() |
| (Ảnh sưu tầm trên mạng) Vô vọng |
Dân luận - Mở Miệng - Trông mong dảng tự thay dổi là diều vô vọng
Mở Miệng
Bất đồng chính kiến
Triều đình mhà sản nói “ở nước Vệ không có ai bị bỏ tù vì bất đồng chính kiến” là đúng đấy chứ!
Từ khi thực dân Pháp bị đánh bại ở miền Bắc và sau đó là chính quyền Cộng Hòa sụp đổ ở miền Nam, dân nước Vệ làm gì còn “chính kiến” để mà bất đồng! Lâu rồi, nước Vệ chỉ tuyền là nhân dân đã “giác ngộ cách mạng”, một lòng một dạ tin yêu đảng, mang ơn đảng, luôn luôn ủng hộ đảng, luôn luôn nói theo ý đảng, luôn luôn làm theo ý đảng!
“Chính kiến” ở nước Vệ đã chết từ lâu, làm sao còn có “bất đồng”?
Mù quáng trước sự thật ư? Leo lẻo dối trá ư? Đảng nhà sản không quan tâm lắm đến sự khác biệt giữa sự thật và dối trá (và thật tình quan sát kỹ sẽ thấy dân nước Vệ cũng không mấy ai quan tâm lắm tới chuyện này!). Đảng nhà sản không coi dối trá là điều nguy hại. Ngược lại đảng thường xuyên chủ trương dối trá để đạt mục tiêu!
Lê Văn Tám là một sự bịa đặt trắng trợn nhưng có sao đâu! Vẫn nghiễm nhiên đi vào sách giáo khoa để “giáo dục” biết bao thế hệ! Còn có bao nhiêu trường hợp như vậy nữa?
Cán bộ từ cấp tỉnh đến trung ương đến cái gọi là bộ chính trị có ai chưa từng một lần viết báo cáo láo? Chưa từng một lần nhắm mắt làm ngơ để “đồng chí” của mình bịa chuyện báo cáo láo? Chưa từng một lần ngậm miệng làm ngơ để “tổ chức” bịa ra những sai lầm khi muốn thanh trừng, hạ bệ một ai đó?
Nếu các văn bản của đảng được cho phép xem xét một cách công khai và khách quan hầu như sẽ không có một “đồng chí” nào chưa một lần dính vào dối trá!
Coi thường sự thật vốn là văn hóa của đảng từ bao nhiêu năm nay, không có gì lạ. Điều đáng nói và nó đã để lại những hệ lụy nhãn tiền.
Góp ý, kiến nghị và liệu pháp “Tay nhúng chàm”
Thời gian gần đây rộ lên hiện tượng gửi góp ý, kiến nghị cho đảng. Người dân thường, khi thấy kiến nghị của các bậc “lão thành cách mạng”, của các “nguyên” cán bộ cao cấp, thường rất hởi lòng hởi dạ. Bởi vì kiến nghị của các vị này có trọng lượng hơn nhiều so với dân đen. Thế nhưng trên thực tế ý kiến của các “lão thành”, các “nguyên” này lại không có mấy hiệu quả. (Xin lưu ý, trong văn khố của đảng có lưu trữ đầy đủ “hồ sơ – báo cáo” của tất cả đảng viên, khi cần đảng có thể lôi ra bất cứ lúc nào)
Kiến nghị thường lấy sự thật trong xã hội làm căn bản, đó là: cán bộ tha hóa, luật pháp nhũng nhiễu, xã hội suy đồi. Thế nhưng như phần trên đã trình bày, trong sưốt thời gian tồn tại đảng, trong đó có những vị hiện đang tới tấp gửi kiến nghị, không mấy tôn trọng sự thật. Vì vậy, khi bị chất vấn với những bằng chứng là hiện thực xã hội những người đương quyền hiện nay sẽ dễ dàng đối phó bằng lập luận: “…khi các anh nắm quyền các anh có hoàn toàn tôn trọng sự thật không? Nắm quyền các anh đâu có mấy tôn trọng sự thật phải không? Thế bây giờ các anh yêu cầu chúng tôi phải tôn trọng sự thật nghĩa là thế nào?…”
Đáng tiếc lập luận này khá hợp lý!
Kiến nghị của các “nguyên”, các “lão thành cách mạng” có thể mang đến cho người dân đen một chút cảm xúc hồ hởi nhưng chắc chắn sẽ không mang đến hiệu quả tích cực đáng kể nào!
Có thể nào đảng tự thay đổi?
Đã có những phân tích dùng các sự kiện như Mùa Xuân Ả Rập, Miến Điện, chỉnh đốn đảng…v.v..., để tiên đoán là triều đình nhà sản sẽ tự thay đổi theo hướng nhân bản hơn! Những phân tích này thiếu ít nhất hai yếu tố quan trọng: đồng tiền và tham vọng bám chặt quyền lực của những tay đang cầm trịch đảng.
Nếu đảng có thể tự chỉnh đốn, việc đó 10 - 15 năm trước dễ thực hiện hơn nhiều. Theo nhận xét từ chính bên trong đảng, trung ương lúc đó có “đạo đức” hơn nhiều so với trung ương lúc này. Sự liên kết giữa quyền lực và đồng tiền lúc đó nếu có vẫn mong manh hơn lúc này nhiều. “Đường dây” làm ăn, lợi lộc thu được của một cán bộ TW lúc này chắc chắn cắm sâu và to lớn hơn nhiều so với một cán bộ tương đương 15 năm trước. Làm sao một người đã bỏ số tiền lớn để mua “ghế” có thể từ bỏ cái “ghế” đó trước khi thu hồi vốn? Vào lúc này đảng và đô la đã quyện chặt vào nhau, đô la thì không bao giờ mất giá!
Động thái phong tướng hàng loạt cho công an và quân đội là động thái kinh điển của các tay độc tài khét tiếng. Hít-le đã phong Nguyên Soái cho hàng loạt bại tướng cuả y nhằm mục đích giữ sự trung thành! Động thái phong tướng hàng loạt tại nước Vệ gần đây cho thấy những tay cầm trịch của đảng đang quyết tâm bám chặt quyền lực.
Đảng tự thay đổi là điều vô vọng.
Đọc thêm:
Suy nghĩ về đổi mới đảng
Suy nghĩ về đổi mới đảng
Nguồn: danluan.org
Lữ Phương (viet-studies.info) - Đó là bài “Sự lạc quan vô tận”, xuất hiện trên BBC ngày 17.1.2012.[1] Bà Phạm Thị Hoài, đang ở Đức, tác giả bài này, viết về một nhà hoạt động văn hoá, xã hội nổi tiếng trong nước hiện nay là ông Chu Hảo, và qua ông Chu Hảo, bà Hoài nhận ra tính chất mẫu mực của một lớp trí thức gọi là “đối lập trung thành” mà bản chất vẫn gắn liền với hệ thống chính trị tư tưởng bấy lâu nay mệnh danh là “chủ nghĩa xã hội” ở Việt Nam. Bà Hoài cho rằng trong khi thực tế chỉ ra rằng hệ thống này đã trở nên bất lực và lỗi thời, thay vì thoát ra ngoài để phủ nhận từ nền móng, những nhà “đối lập” nói trên vẫn ôm ấp thứ chủ nghĩa xã hội ấy như một lý tưởng, căn cứ vào đó phản biện một số sai lầm trong thực tế lãnh đạo của Đảng cộng sản, với hy vọng cải tạo hệ thống để cứu nó khỏi sự sụp đổ. Nhiều người làm công việc này trước đây đã bị chế độ thanh trừng nhưng hiện nay có vẻ như những người kế tục đang trở nên có giá. Họ được Đảng để cho công khai ăn nói thoải mái (kể cả lên tiếng nơi những phương tiện truyền thông bị xem là “thù địch”) chỉ có điều là ý kiến của họ thường không được Đảng quan tâm trả lời đàng hoàng. Bà Hoài vẫn tỏ vẻ kính trọng họ, có ý cho rằng vị trí của họ cao hơn nhiều lần loại người cũng thoát khỏi guồng máy như họ nhưng lại thiếu hẳn nhân cách để lên mặt dè bỉu họ. Những trí thức này cũng nhận những “mạt sát bạt mạng từ những người hùng Việt kiều ẩn danh trên mạng” nhưng bà Hoài cho rằng việc đó có thể bỏ qua, có lẽ vì không đáng để họ quan tâm.
Tuy thế, một thái độ “đối lập” trí thức như vậy lại được bà Hoài cho là có tính chất nước đôi, nghịch lý: “vừa cổ vũ cho tự do tư tưởng, vừa biện minh cho sự cần thiết của chiếc gông tròng vào cổ trí thức Việt Nam và đè nặng lên họ”, chỉ vì sự lãnh đạo của Đảng đối với trí thức (qua phát ngôn của ông Chu Hảo) vẫn còn được duy trì. Do vậy mà xét đến cùng thì điều đó chỉ mang đến cho cuộc sống tinh thần nhiều tệ hại: vẫn ảo tưởng về khả năng lãnh đạo của Đảng đối với trí thức do đó cũng còn tin rằng Đảng vẫn còn khả năng nghe theo những đề nghị của trí thức để thay đổi. Một cách khách quan bà Hoài cho rằng những phản biện như vậy chỉ mang ý nghĩa một cuộc giải phẫu thẩm mĩ cho một chế độ toàn trị xấu xí, già nua để “giúp nó tồn tại mĩ miều hơn”.
Nguyên nhân của cung cách suy tưởng này được bà Hoài quy về sự nhồi sọ của hệ thống toàn trị của Đảng: hệ thống này “đã biến đổi thành công bộ nhiễm sắc thể của các đảng viên, ‘sự lãnh đạo của Đảng’ đã ăn vào gen trong cơ thể họ và tự động phát tiết, trong cả những tình huống không phù hợp nhất”. Nói cách khác, tuy có mục đích phê phán đường lối của Đảng nhưng những trí thức “đi theo Đảng” đó mãi mãi vẫn không thoát khỏi sợi dây trói buộc về các công thức tư duy mòn sáo của Đảng. Bà Hoài cho rằng thái độ phù hợp hiện nay không phải chỉ thoát ra khỏi bộ máy để phản biện mà là rời bỏ cả hệ thống để tìm đến một thứ đối lập khác, có ích và cần thiết hơn.
2.
Khi sử dụng khái niệm “đối lập trung thành” để chỉ thị xu hướng phản biện trên đây, chắc hẳn bà Hoài đã có tham khảo và lấy nguồn cảm hứng từ một tác giả viết về đề tài này, cách đây 6 năm (2006), đó là Zachary Abuza với bài “Loyal Opposition: The Rise of Vietnamese Dissidents”,[2] trong bài viết này học giả người Mỹ nói trên đã nhắc đến khái niệm “đối lập trung thành” để nghiên cứu sự chuyển động chính trị ở Việt Nam sau thời kỳ “đổi mới”, trong đó nhiều khuôn mặt trí thức tiêu biểu đã được phân tích để chỉ ra những phần tích cực lẫn giới hạn của họ. Các thuộc tính khác nhau trong phân tích nói trên cũng có thể tìm thấy trong bài viết của bà Hoài.
Tuy vậy vẫn có điều khác là những mặt tích cực và giới hạn trong công trình của Abuza nếu được trình bày một cách khách quan, theo ngôn ngữ của một văn bản nghiên cứu thì trong bài của bà Hoài những mặt giới hạn và tiêu cực lại được chú trọng để phê phán nhiều hơn, hơn nữa sự phê phán ấy lại được làm nổi bật và gây được ấn tượng nhiều hơn vì được diễn đạt bằng một thứ ngôn ngữ cường điệu, cảm tính rất quen thuộc của một tác giả từng nổi tiếng về viết tiểu thuyết. Ở đây các nguyên nhân khách quan, lịch sử tạo nên hiện tượng cần nêu ra để lý giải đã không được nói đến mà lại được quy giản thành những huyễn hoặc tâm lý có tính chất chuyển giao thế hệ của những con người cấu thành hiện tượng.
Cách lập luận của tác giả vì vậy có nhiều điều không thuận lý lắm. Đáng chú ý hơn hết là cái cách tác giả dựa vào những phát biểu cụ thể của ông Chu Hảo khái quát cho toàn bộ xu hướng mệnh danh là “đối lập trung thành” để giảng giải, bàn luận. Trong khi đó thì thực tế cho chúng ta biết nếu có ai đó tin tưởng thành khẩn vào điều mình trình bày (giống như cách trình bày của ông Chu Hảo) thì cũng có không ít người (trong đó không loại trừ cả bản thân ông Chu Hảo) chỉ coi kiểu diễn ngôn đó, vừa như một thủ thuật để tự bảo vệ, vừa là một cách thức thích hợp để tác động vào chính guồng máy mà họ đang phải sống chung. Trong hoàn cảnh này không ít tác giả đã coi việc đề cao vai trò của Đảng như một thủ tục để lồng vào đó nhiều điều mà nếu bùi tai nghe theo, Đảng sẽ không còn là cộng sản nữa! Thử đọc Nguyễn Trung hoặc nghe Nguyễn Văn An mà xem!
Xét cho cùng, thì tất cả đều chỉ là cuộc đánh vật về những khái niệm, và do bà Hoài quá tin vào chữ nghĩa nên bà đã bị lừa về mặt chữ nghĩa để khi sử dụng khái niệm “đối lập trung thành” bà đã đương nhiên khẳng định sự tồn tại của thực tại đó trong đời sống chính trị hiện nay ở Việt Nam. Như vậy là có nhiều điều không giống với Abuza: nếu trong bài viết của mình, tác giả này chỉ coi “đối lập trung thành” như là khả năng có thể hình thành trong tương lai từ những hoạt động bất đồng chính kiến có giới hạn hiện nay, thì qua sự biện giải trong bài viết của bà Hoài, “đối lập trung thành” đã được khẳng định như một tồn tại minh nhiên, hiện thực. Khẳng định này thiếu sự chính danh nghiêm nhặt, vì trong sự diễn đạt của bà Hoài, việc xác nhận khái niệm nói trên chỉ được coi như một tu từ ở đó sự “trung thành” đã mang ý nghĩa tiêu cực của một thái độ chính trị cần phê phán.
Thật sự thì khái niệm “đối lập trung thành” đã có nguồn gốc từ nghị viện nước Anh quân chủ vào thế kỷ 19: “đối lập” ở đây là đối lập với đảng đa số đang cầm quyền, còn “trung thành” ở đây là trung thành với vị Vua đang trị vì, cho nên tên gọi đầy đủ của khái niệm là “Her (or His) Majesty's Most Loyal Opposition” (còn được gọi là “The Official Opposition”). Nội dung này về sau đã được khái quát hoá thành một khái niệm chính trị có tính chất định chế trong các nước theo thể chế dân chủ đa đảng: các đảng thiếu số có quyên tồn tại và được luật pháp bảo vệ để tham gia nghị trường với tư cách đối lập với đảng đương quyền, qua sự phản biện các chính sách đang thực hiện, đưa ra đường lối mới hy vọng thay thế đảng đương quyền trong kỳ bầu cử sắp tới. Trung thành bây giờ không phải trung thành với bất cứ thực thể cụ thể nào mà là với những nguyên lý tạo nền cho một thể chế dân chủ đích thực.
3.
Thực thể gọi là “đối lập trung thành” với nội dung nói trên hiển nhiên không thể nào tồn tại được trong chế độ gọi là “chủ nghĩa xã hội hiện thực”. Nó hoàn toàn không thể tồn tại vì cái xã hội công dân tạo nền cho các hoạt động của các lực lượng “đối lập” mang cùng tính chất đã không được thừa nhận theo lý luận chuyên chính gọi là “vô sản” của Đảng. Tất cả mọi hoạt động xã hội đều phải do Đảng nắm chặt bằng Nhà nước cùng với hệ thống chính trị đặt nền trên đường lối chuyên chính đó. Cho rằng chủ trương này là do K. Marx đẻ ra là không thoả đáng: trong xã hội cộng sản lý thuyết do triết gia này đề xuất, nhà nước sẽ dần dà bị xã hội công dân nuốt chửng rồi sau đó nhường bước cho sự ra đời một nhân loại phổ biến chứ không thể là ngược lại như trong chế độ “chủ nghĩa xã hội hiện thực”: sau khi triệt tiêu xã hội công dân rồi nhà nước trở thành tuyệt đối và vĩnh viễn.
Cần lưu ý là trong một chế độ “toàn trị ” mang danh chủ nghĩa xã hội đó, hiện tượng người ta thường gọi là “bất đồng chính kiến” vẫn tồn tại qua mọi thăng trầm. Nhìn vào lịch sử các chế độ cộng sản thực tế hiện tượng này rất đễ dàng nhận ra, dưới nhiều hình thức và danh nghĩa, hầu hết đều diễn ra hết sức bạo liệt . Dù vậy, để duy tính cách mạng cho phê phán và tranh đấu, người ta không thể nhân danh một cái gì đó bên ngoài thứ lý luận gọi là “vận dụng học thuyết Marx-Lenin”, căn cứ vào đó phê phán những chủ trương bị xem là sai lầm trong sự vận dụng của Đảng vào việc “xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Và hiển nhiên sự phê phán ấy đã không thể trở thành cương lĩnh của một lực lượng có tổ chức công khai được thừa nhận là “đối lập trung thành” trong một chế độ có tham vọng kiểm soát con người từ đầu cho đến chân.
Cũng cần lưu ý thêm là sự mạnh yếu, rộng hẹp của hiện tượng bất đồng chính kiến nói trên trong chế độ ấy không phải lúc nào cũng như nhau. Tất cả đều tuỳ theo tình hình chung, tuỳ theo tương quan giữa xã hội và nhà nước mà diễn ra dưới nhiều mức độ. Nếu trước đây phong trào “Nhân Văn-Giai phẩm”, “chủ nghĩa xét lại”… xét về căn bản tỏ ra khá “trung thành” với hệ thống mà vẫn bị trấn áp tàn tệ thì ngày nay, trong thời kỳ “đổi mới”, nhiều phê phán đạt đến mức “chạm trần” mà vẫn tồn tại được dưới những hình thức nào đó. Tại sao? Chắc chắn không phải do Đảng đã trở nên dân chủ hơn, khoan dung hơn để không thèm “đếm xỉa” các phản biện rất “phản động” trên đây mà chỉ vì trong thực tế đã đến lúc Đảng không còn đủ sức để lùa vào vòng kiểm soát của mình những ai không “nghĩ trong điều Đảng nghĩ” nữa. Nhìn vào những gì diễn ra ở Việt Nam sau 1986, nhất là sau sự tan rã của “phe xã hội chủ nghĩa”, có thể nhận ra điều đó dễ dàng!
Đặt vào quá trình đấu tranh dân chủ hoá xã hội ở Việt Nam, hiện tượng phản biện trên đây, dù mang trong bản thân nhiều hạn chế và những hạn chế ấy được chấp nhận như điều kiện để tồn tại, cách nói của bà Hoài, xem đó là một “cuộc giải phẫu thẩm mỹ giúp chế độ toàn trị tồn tại mỹ miều hơn” là không thoả đáng, nếu không nói là hoàn toàn phản thực tế. Vì thực tế cho chúng thấy phải hiểu ngược lại mới đúng: ra đời từ những nỗ lực cực kỳ gian khổ để dân chủ hoá đời sống xã hội, những nỗ lực trên đây, cho đến nay đang có tác dụng làm suy yếu chế độ toàn trị ngay trong sân chơi của nó, làm cho chế độ ấy mau chóng mất đi tính chính danh ngay trên chính những nguyên lý của nó. Nếu không khó giải thích việc chế độ toàn trị luôn tỏ ra rất khó chịu, bực bội với hiện tượng này, thì cũng rất dễ hiểu khi thấy trong khi không dám đối thoại sòng phẳng với những phản biện gai góc, những cái lưỡi gỗ của chế độ đã không biết làm gì để đối phó, ngoài việc nhét tất cả vào cái phạm trù gọi là “diễn biến hoà bình” và “tự diễn biến hoà bình” để quy chụp và kết án là “cơ hội”.
4.
Khi xác định vị trí tranh đấu của mình, những người phản biện từ bên trong không hề coi phương thức lên tiếng của họ là duy nhất đúng, duy nhất có ích. Đó chỉ là một chọn lựa trong nhiều chọn lựa nhưng khi đã đứng vào vị trí ấy rồi thì sự cân nhắc về tác dụng của hành động và lời nói phải trở thành điều cần thiết: chẳng hạn không thể lúc nào cũng ngang nhiên đòi “giải thể” cái này cái nọ tức khắc cho hả giận và cho sướng miệng, không phải vì sợ bị bỏ tù mà chỉ vì không thích hợp. Từ những giới hạn buộc phải chấp nhận một cách chính danh thì chỉ nên gọi như người ta thường gọi họ là những người phản biện, hoặc ồn ào hơn một chút, có thể gọi họ là những người bất đồng chính kiến – những người như vậy ngày càng nhiều thêm, thái độ của họ ngày càng mạnh mẽ, quyết liệt. Đây không phải chỉ là kết quả của một quá trình giải hoặc về tư tưởng mà chính yếu đã bắt nguồn từ cái thực tế chuyển động của xã hội đang tác động vào bản thân họ: là sự thất bại hiển nhiên của chế độ toàn trị mạo danh xã hội chủ nghĩa giao thoa với cái xã hội công dân đã bị chế độ toàn trị ấy thủ tiêu cũng mạo danh chủ nghĩa xã hội, nay đang phục hồi do sự thất bại của thứ chủ nghĩa xã hội bị mạo danh ấy.
Tất cả đã tác động đến bản thân các đảng viên với tư cách là những công dân và những con người, làm cho cả một lớp trí thức một thời “đi theo Đảng” khi nhìn lại mọi thứ, ngày càng nhận ra sự cách bức trầm trọng giữa Đảng và xã hội, cuối cùng đã chọn đứng về phía xã hội để, từ tư thế của mình, đòi hỏi Đảng phải dân chủ hoá bản thân, tiến hành những cải cách để thực hiện những thay đổi có lợi cho xã hội.
Chừng nào thì hành vi phản biện mạnh mẽ nói trên có khả năng chuyển hoá thành một xu hướng chính trị có tổ chức mệnh danh là “đối lập trung thành” theo đúng nguyên nghĩa của nó? Không thể biết được nhưng chắc chắn đó là điều thật đáng mong mỏi. Nhưng để điều đó trở thành thực tế thì bản thân chế độ toàn trị phải có sự chuyển hoá thật mạnh mẽ về chất, sự chuyển hoá ấy cốt yếu phải được thúc đẩy bởi sự lớn mạnh của cái xã hội công dân hiện diện bên ngoài sự tồn tại của Đảng: không có sự lớn mạnh của xã hội công dân này thì mọi sự chuyển biến trong Đảng, có tính tới áp lực nội tại của thành phần phản biện nói trên, vẫn chỉ loay hoay trong những hứa hẹn, nếu không mị dân để đối phó thì cũng hoang tưởng, nửa vời.
Xét về logic của sự chuyển hoá hoà bình có thể khẳng định rằng chỉ có một xã hội công dân đã trưởng thành về mọi mặt (kinh tế, văn hoá lẫn chính trị) mới có khả năng hạn chế các chính sách chuyên chế của Đảng, từng bước tác động vào Đảng, mang đến cho những trí thức của Đảng nhiều tính chất dân chủ hơn trong những đề xuất cải cách, qua đó dọn đường dần dà cho sự hoá thân của Đảng, từ một đảng toàn trị thành một đảng dân chủ. Logic thì như vậy và mong ước cũng là như vậy. Nhưng thực tế hiếm khi đi theo logic của sự suy tưởng lý tính, trong trường hợp này, bạo lực có thể sẽ lại lên ngôi một lần nữa, bạo lực cách mạng và cả bạo lực phản cách mạng. Mọi sự bàn luận về thực thể gọi là “đối lập trung thành” bây giờ sẽ mất hoàn toàn ý nghĩa, không cần thiết.
![]() |
| (Ảnh: diendantheky) |
Ngô Nhân Dụng(diendantheky) - Sau vụ anh Đoàn Văn Vươn ở xã Vinh Quang huyện Tiên Lãng bị cướp đất rồi bị bắt, nhiều người Việt trong nước đã đặt câu hỏi trên các mạng lưới: “Liệu vụ này có bị chìm xuồng không?” Rồi tự trả lời, “Chúng tôi chả còn biết tin vào đâu nữa!” Một độc giả khác trấn an: “Hãy tin vào Đảng vào trung ương ...” Nhưng có người phản bác ngay: “Các bác vẫn còn cái trung ương để tin. Em thì chẳng. Dứt khoát như thế cho nó nhanh. Còn tin vào đâu?”
Một cách cụ thể, một vị độc giả trên mạng đề nghị: “Hãy làm một cuộc trưng cầu dân ý bằng cách cho mọi người bỏ phiếu với hai khả năng (chọn lựa): Tin – Không tin.” Và vị này đoán kết quả sẽ “có đến 90 % người dân không tin vào vai trò lãnh đạo của Đảng nữa.” Một vị khác đồng ý: “Tôi nghĩ … việc mất lòng tin của dân là nhãn tiền.”
Thực sự bây giờ mà đặt câu hỏi dân Việt Nam còn tin hay không tin đảng Cộng sản thì hơi phí thời giờ. Đó là một vấn đề chẳng cần nêu ra làm gì nữa, câu trả lời ai cũng biết rồi. Có thể đặt ngay một câu hỏi là “Đảng Cộng sản có còn tin vào Đảng nữa hay không?” Và có thể trả lời ngay là KHÔNG. Cũng trả lời “Dứt khoát như thế cho nó nhanh!”
Hãy thử tự đặt mình vào địa vị các đảng viên và lãnh tụ cao cấp của Đảng mà tự hỏi: “Nếu TIN thì TIN vào cái gì? Có cái gì để TIN hay không?” Hỏi rồi, nhìn quanh nhìn quẩn, thực tình, chẳng thấy có cái gì để tin hết! Chính họ cũng không thấy có gì để tin vào Đảng của họ nữa, “Nói dứt khoát như thế cho nó nhanh!”
Trước hết, đảng viên cộng sản còn ai tin vào mục đích sau cùng của các đảng cộng sản là làm cách mạng vô sản toàn thế giới hay không? Các đảng viên cộng sản bây giờ còn tin rằng kinh tế tư bản đang rẫy chết, sắp sụp đổ như ông tổ Karl Marx đã tiên đoán trước đây hơn 150 năm hay không? Các đảng viên cộng sản bây giờ còn ai muốn nghiên cứu học tập những lý thuyết viển vông như Duy Vật Biện Chứng hay Duy Vật Lịch Sử nữa hay không?
Những giáo điều căn bản của đảng cộng sản, họ không tin, thì họ tin vào cái gì? Ngay cả những lãnh tụ cao cấp nhất trong đảng cũng chỉ chăm chắm lo làm giầu, lo củng cố địa vị cho con cháu; có ai bây giờ còn tự xưng mình là một “chiến sĩ vô sản?”
Cơn khủng hoảng niềm tin trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam đã bắt đầu ngay từ khi họ chiếm được miền Nam Việt Nam. Những đảng viên người miền Bắc thấy rõ người dân trong Nam từng có mức sống cao hơn và có nhiều quyền tự do hơn trước khi “được Đảng giải phóng.” Những chính sách kinh tế thất bại gây ra nạn đói, cho thấy chủ trương và tài cán của các lãnh tụ là số không. Các cuộc chiến tranh với Khờ Me Đỏ và Trung Cộng cho thấy cái gọi là chủ nghĩa quốc tế vô sản là hoàn toàn dối trá, bịp bợm. Cảnh sụp đổ của Liên Xô và khối cộng sản ở Âu Châu đã mở mắt tất cả những đảng viên vẫn còn mơ hồ. Khi đảng Cộng sản quyết định “đổi mới” thì người ta đã thấy chẳng qua chỉ là trở về với những phương pháp cũ, trước bị đảng Cộng sản thay đổi! Nếu còn ai tin tưởng vào đảng Cộng sản thì niềm tin đó cũng chấm dứt khi người ta nhìn thấy cảnh các cán bộ từ trên xuống dưới chạy đua trên con đường biến thành tư bản đỏ. Không phải tất cả các đảng viên cộng sản đều hy vọng thành tư bản đỏ, vì chỉ có một thiểu số giành được quyền làm giầu. Những người còn lại phải bám vào đảng để sống.
Riêng đám lãnh tụ đầu đảng bây giờ chỉ còn lo củng cố địa vị mà làm giầu. Họ tìm cách học tập rồi chắp vá những mánh khóe của các chế độ độc tài khác trên thế giới, cố làm sao bảo vệ quyền hành, và bảo đảm đám con cháu sẽ còn được hưởng thụ như họ càng lâu càng tốt. Tất cả là một mạng lưới kết hợp chặt chẽ với nhau để giữ quyền và đục khoét. Ở cấp xã, cấp huyện thì tiêu biểu là xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng. Ở cấp cao hơn thì tiêu biểu là bọn những tập đoàn PMU 18, Xa lộ Đông Tây ở Sài Gòn, Vinashin. Tất cả đều nhắm mục đích vơ vét thật nhanh, vì biết ngày sụp đổ không còn xa nữa. Leo lên ngồi được vào một cái ghế rất tốn kém, thời gian kiếm chác không biết được bao lâu, cho nên phải nhất trí vơ vét thật nhanh! Như một người dân đã viết trên mạng: Họ đầu tư thì họ phải cố thu hồi!
Tóm lại, bây giờ, Đảng Cộng sản cũng không còn tin vào chính nó nữa. Những bài diễn văn vẫn đề cao những chủ nghĩa lạc hậu, vẫn hô to các khẩu hiệu rỗng tuếch; chính họ cũng không còn tin lời họ nói nữa. Ngay việc họ vẫn tự gọi tên đảng của họ là Đảng Cộng sản đã là một điều dối trá trơ trẽn rồi. Người dân coi họ chỉ là một bè lũ Mafia.
Nhưng một hậu quả thê thảm sau hơn nửa thế kỷ cộng sản cai trị, là họ cũng phá vỡ hết cả niềm tin của mọi người dân Việt Nam. Đảng Cộng sản ngay từ đầu đã chủ trương phá các tôn giáo, vì sợ lòng trung thành với đảng bị chia sẻ. Họ hủy bỏ trật tự của các gia đình, là nơi vẫn chứa đựng các giá trị nhân bản như tình thương yêu giữa cha mẹ và con cái, niềm tin vào phúc đức tổ tiên, truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Họ biến công việc giáo dục thành một khí cụ tuyên truyền, xóa sạch tinh thần “tôn sư trọng đạo” mà các tiền nhân từ Chu An đến Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng trong hàng ngàn năm. Họ bỏ mặc các giáo chức sống nghèo khổ, phải lo kiếm ăn nhiều hơn là lo giáo dục; làm mất uy tín của các thầy giáo, cô giáo, mà từ đời xưa vẫn được coi là lớp người làm gương mẫu cho thanh thiếu niên Việt Nam. Họ coi cả hệ thống tư pháp là một dụng cụ cai trị, không người dân nào tin tưởng vào luật pháp nữa. Trật tự xã hội chỉ dựa trên nỗi sợ hãi trước guồng máy công an.
Hậu quả của các chính sách cộng sản là tạo nên một xã hội bơ vơ không còn ai tin vào các giá trị tinh thần. Trước đây 30 năm, tập truyện Thằng Người Có Đuôi của nhà văn Thế Giang đã cho thấy những thứ tội ác diễn ra lạnh lùng, ngay cả cảnh người lớn đối sử ác độc với trẻ em. Trước đây 25 năm Nguyễn Huy Thiệp đã mô tả tình trạng con giết cha, vợ bỏ chồng, anh em, bạn bè lợi dụng lẫn nhau; trong một xã hội hoàn toàn không có các tiêu chuẩn luân lý. Nhưng trong văn chương của Nguyễn Huy Thiệp cũng như Thế Giang độc giả còn thấy bóng dáng của lòng từ bi, của những khát vọng hướng về Cái Thiện. Ngày nay, đọc Tiểu thuyết Xe Lên Xe Xuống của Nguyễn Bình Phương chúng ta thấy ông cực tả tình trạng trống rỗng tinh thần ở một mức độ kinh hoàng hơn nữa. Cái Thiện hoàn toàn vắng mặt. Các nhân vật trong Xe Lên Xe Xuống không quan tâm đến một giá trị luân lý nào cả. Động cơ của họ khi cư sử với nhau, khi đối phó với hoàn cảnh bên ngoài, đều là do lòng tham và nỗi sợ. Họ chỉ đi tìm tiền bạc, quyền hành, và nhục dục. Họ nhìn người khác đều chỉ thấy đó là những vật có thể dùng để thỏa mãn các mục đích này. Hình ảnh duy nhất còn mang lại niềm tin trong toàn cảnh tiểu thuyết này là tình anh em ruột thịt, qua những ký ức về thời thơ ấu của nhân vật chính, khi hai anh em đối sử với nhau như những con người, không vụ lợi.
Có thể đó là một điều mà Nguyễn Bình Phương nêu lên như mầm mống để nuôi hy vọng cho một nước Việt Nam tốt đẹp hơn. Cuốn tiểu thuyết đặt trong bối cảnh cuộc chiến tranh Việt Hoa tàn khốc những năm 1979, và 1984, cuối cùng, chứa đựng một nỗi khát khao: Phải sống lại tình anh em máu mủ, như thời chúng ta còn là những đứa trẻ thơ.
Bởi vì các chế độ chính trị sau cùng đều tàn lụi cả. Các chủ nghĩa, các lý thuyết đều chỉ có giá trị nhất thời. Những người giầu có nhất, quyền lực cao nhất, sau cùng cũng sẽ bị lãng quên. Quyền hành, Danh vọng, Tiền bạc, khi chết không ai mang theo được. Nhưng tình tự dân tộc, tình thương yêu giữa người Việt Nam với nhau giống như tình anh em ruột thịt, vẫn tồn tại. Mọi người Việt Nam dù ở trong nước hay ở nước ngoài đều chia sẻ những nỗi nhục nhằn cay đắng của các nhân vật trong Xe Lên Xe Xuống, trong cơn hoạn nạn đất nước bị xâm lăng. Tất cả đều xúc động khi đọc tin tức về gia đình ông Đoàn Văn Vươn. Tình đồng bào đó vượt lên trên mọi bức tường chia rẽ chúng ta, dù là tường lửa.
Bây giờ chẳng cần đặt ra câu hỏi người dân còn tin chính quyền Cộng sản hay không nữa. Nhưng chúng ta có thể tin vào tình thương yêu giữa đồng bào với nhau. Mối quan tâm lớn là chính chúng ta phải xây dựng lại niềm tin giữa người Việt Nam với người Việt Nam. Bắt đầu bằng tấm lòng thành thật, bằng lời nói đúng sự thật, và thái độ sẵn sàng tin tưởng vào những người cùng thành tâm thiện chí. Chỉ có sự thật xây dựng được niềm tin.
Một cách cụ thể, một vị độc giả trên mạng đề nghị: “Hãy làm một cuộc trưng cầu dân ý bằng cách cho mọi người bỏ phiếu với hai khả năng (chọn lựa): Tin – Không tin.” Và vị này đoán kết quả sẽ “có đến 90 % người dân không tin vào vai trò lãnh đạo của Đảng nữa.” Một vị khác đồng ý: “Tôi nghĩ … việc mất lòng tin của dân là nhãn tiền.”
Thực sự bây giờ mà đặt câu hỏi dân Việt Nam còn tin hay không tin đảng Cộng sản thì hơi phí thời giờ. Đó là một vấn đề chẳng cần nêu ra làm gì nữa, câu trả lời ai cũng biết rồi. Có thể đặt ngay một câu hỏi là “Đảng Cộng sản có còn tin vào Đảng nữa hay không?” Và có thể trả lời ngay là KHÔNG. Cũng trả lời “Dứt khoát như thế cho nó nhanh!”
Hãy thử tự đặt mình vào địa vị các đảng viên và lãnh tụ cao cấp của Đảng mà tự hỏi: “Nếu TIN thì TIN vào cái gì? Có cái gì để TIN hay không?” Hỏi rồi, nhìn quanh nhìn quẩn, thực tình, chẳng thấy có cái gì để tin hết! Chính họ cũng không thấy có gì để tin vào Đảng của họ nữa, “Nói dứt khoát như thế cho nó nhanh!”
Trước hết, đảng viên cộng sản còn ai tin vào mục đích sau cùng của các đảng cộng sản là làm cách mạng vô sản toàn thế giới hay không? Các đảng viên cộng sản bây giờ còn tin rằng kinh tế tư bản đang rẫy chết, sắp sụp đổ như ông tổ Karl Marx đã tiên đoán trước đây hơn 150 năm hay không? Các đảng viên cộng sản bây giờ còn ai muốn nghiên cứu học tập những lý thuyết viển vông như Duy Vật Biện Chứng hay Duy Vật Lịch Sử nữa hay không?
Những giáo điều căn bản của đảng cộng sản, họ không tin, thì họ tin vào cái gì? Ngay cả những lãnh tụ cao cấp nhất trong đảng cũng chỉ chăm chắm lo làm giầu, lo củng cố địa vị cho con cháu; có ai bây giờ còn tự xưng mình là một “chiến sĩ vô sản?”
Cơn khủng hoảng niềm tin trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam đã bắt đầu ngay từ khi họ chiếm được miền Nam Việt Nam. Những đảng viên người miền Bắc thấy rõ người dân trong Nam từng có mức sống cao hơn và có nhiều quyền tự do hơn trước khi “được Đảng giải phóng.” Những chính sách kinh tế thất bại gây ra nạn đói, cho thấy chủ trương và tài cán của các lãnh tụ là số không. Các cuộc chiến tranh với Khờ Me Đỏ và Trung Cộng cho thấy cái gọi là chủ nghĩa quốc tế vô sản là hoàn toàn dối trá, bịp bợm. Cảnh sụp đổ của Liên Xô và khối cộng sản ở Âu Châu đã mở mắt tất cả những đảng viên vẫn còn mơ hồ. Khi đảng Cộng sản quyết định “đổi mới” thì người ta đã thấy chẳng qua chỉ là trở về với những phương pháp cũ, trước bị đảng Cộng sản thay đổi! Nếu còn ai tin tưởng vào đảng Cộng sản thì niềm tin đó cũng chấm dứt khi người ta nhìn thấy cảnh các cán bộ từ trên xuống dưới chạy đua trên con đường biến thành tư bản đỏ. Không phải tất cả các đảng viên cộng sản đều hy vọng thành tư bản đỏ, vì chỉ có một thiểu số giành được quyền làm giầu. Những người còn lại phải bám vào đảng để sống.
Riêng đám lãnh tụ đầu đảng bây giờ chỉ còn lo củng cố địa vị mà làm giầu. Họ tìm cách học tập rồi chắp vá những mánh khóe của các chế độ độc tài khác trên thế giới, cố làm sao bảo vệ quyền hành, và bảo đảm đám con cháu sẽ còn được hưởng thụ như họ càng lâu càng tốt. Tất cả là một mạng lưới kết hợp chặt chẽ với nhau để giữ quyền và đục khoét. Ở cấp xã, cấp huyện thì tiêu biểu là xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng. Ở cấp cao hơn thì tiêu biểu là bọn những tập đoàn PMU 18, Xa lộ Đông Tây ở Sài Gòn, Vinashin. Tất cả đều nhắm mục đích vơ vét thật nhanh, vì biết ngày sụp đổ không còn xa nữa. Leo lên ngồi được vào một cái ghế rất tốn kém, thời gian kiếm chác không biết được bao lâu, cho nên phải nhất trí vơ vét thật nhanh! Như một người dân đã viết trên mạng: Họ đầu tư thì họ phải cố thu hồi!
Tóm lại, bây giờ, Đảng Cộng sản cũng không còn tin vào chính nó nữa. Những bài diễn văn vẫn đề cao những chủ nghĩa lạc hậu, vẫn hô to các khẩu hiệu rỗng tuếch; chính họ cũng không còn tin lời họ nói nữa. Ngay việc họ vẫn tự gọi tên đảng của họ là Đảng Cộng sản đã là một điều dối trá trơ trẽn rồi. Người dân coi họ chỉ là một bè lũ Mafia.
Nhưng một hậu quả thê thảm sau hơn nửa thế kỷ cộng sản cai trị, là họ cũng phá vỡ hết cả niềm tin của mọi người dân Việt Nam. Đảng Cộng sản ngay từ đầu đã chủ trương phá các tôn giáo, vì sợ lòng trung thành với đảng bị chia sẻ. Họ hủy bỏ trật tự của các gia đình, là nơi vẫn chứa đựng các giá trị nhân bản như tình thương yêu giữa cha mẹ và con cái, niềm tin vào phúc đức tổ tiên, truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Họ biến công việc giáo dục thành một khí cụ tuyên truyền, xóa sạch tinh thần “tôn sư trọng đạo” mà các tiền nhân từ Chu An đến Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng trong hàng ngàn năm. Họ bỏ mặc các giáo chức sống nghèo khổ, phải lo kiếm ăn nhiều hơn là lo giáo dục; làm mất uy tín của các thầy giáo, cô giáo, mà từ đời xưa vẫn được coi là lớp người làm gương mẫu cho thanh thiếu niên Việt Nam. Họ coi cả hệ thống tư pháp là một dụng cụ cai trị, không người dân nào tin tưởng vào luật pháp nữa. Trật tự xã hội chỉ dựa trên nỗi sợ hãi trước guồng máy công an.
Hậu quả của các chính sách cộng sản là tạo nên một xã hội bơ vơ không còn ai tin vào các giá trị tinh thần. Trước đây 30 năm, tập truyện Thằng Người Có Đuôi của nhà văn Thế Giang đã cho thấy những thứ tội ác diễn ra lạnh lùng, ngay cả cảnh người lớn đối sử ác độc với trẻ em. Trước đây 25 năm Nguyễn Huy Thiệp đã mô tả tình trạng con giết cha, vợ bỏ chồng, anh em, bạn bè lợi dụng lẫn nhau; trong một xã hội hoàn toàn không có các tiêu chuẩn luân lý. Nhưng trong văn chương của Nguyễn Huy Thiệp cũng như Thế Giang độc giả còn thấy bóng dáng của lòng từ bi, của những khát vọng hướng về Cái Thiện. Ngày nay, đọc Tiểu thuyết Xe Lên Xe Xuống của Nguyễn Bình Phương chúng ta thấy ông cực tả tình trạng trống rỗng tinh thần ở một mức độ kinh hoàng hơn nữa. Cái Thiện hoàn toàn vắng mặt. Các nhân vật trong Xe Lên Xe Xuống không quan tâm đến một giá trị luân lý nào cả. Động cơ của họ khi cư sử với nhau, khi đối phó với hoàn cảnh bên ngoài, đều là do lòng tham và nỗi sợ. Họ chỉ đi tìm tiền bạc, quyền hành, và nhục dục. Họ nhìn người khác đều chỉ thấy đó là những vật có thể dùng để thỏa mãn các mục đích này. Hình ảnh duy nhất còn mang lại niềm tin trong toàn cảnh tiểu thuyết này là tình anh em ruột thịt, qua những ký ức về thời thơ ấu của nhân vật chính, khi hai anh em đối sử với nhau như những con người, không vụ lợi.
Có thể đó là một điều mà Nguyễn Bình Phương nêu lên như mầm mống để nuôi hy vọng cho một nước Việt Nam tốt đẹp hơn. Cuốn tiểu thuyết đặt trong bối cảnh cuộc chiến tranh Việt Hoa tàn khốc những năm 1979, và 1984, cuối cùng, chứa đựng một nỗi khát khao: Phải sống lại tình anh em máu mủ, như thời chúng ta còn là những đứa trẻ thơ.
Bởi vì các chế độ chính trị sau cùng đều tàn lụi cả. Các chủ nghĩa, các lý thuyết đều chỉ có giá trị nhất thời. Những người giầu có nhất, quyền lực cao nhất, sau cùng cũng sẽ bị lãng quên. Quyền hành, Danh vọng, Tiền bạc, khi chết không ai mang theo được. Nhưng tình tự dân tộc, tình thương yêu giữa người Việt Nam với nhau giống như tình anh em ruột thịt, vẫn tồn tại. Mọi người Việt Nam dù ở trong nước hay ở nước ngoài đều chia sẻ những nỗi nhục nhằn cay đắng của các nhân vật trong Xe Lên Xe Xuống, trong cơn hoạn nạn đất nước bị xâm lăng. Tất cả đều xúc động khi đọc tin tức về gia đình ông Đoàn Văn Vươn. Tình đồng bào đó vượt lên trên mọi bức tường chia rẽ chúng ta, dù là tường lửa.
Bây giờ chẳng cần đặt ra câu hỏi người dân còn tin chính quyền Cộng sản hay không nữa. Nhưng chúng ta có thể tin vào tình thương yêu giữa đồng bào với nhau. Mối quan tâm lớn là chính chúng ta phải xây dựng lại niềm tin giữa người Việt Nam với người Việt Nam. Bắt đầu bằng tấm lòng thành thật, bằng lời nói đúng sự thật, và thái độ sẵn sàng tin tưởng vào những người cùng thành tâm thiện chí. Chỉ có sự thật xây dựng được niềm tin.
Ngô Nhân Dụng
![]() |
| (Ảnh: quechoa.info) |
KVTT - Trí thức hiểu theo nghĩa đơn giản là những người biết dùng đầu óc và sự tỉnh thức của mình để nhận định và đánh giá chính xác mọi sự việc xung quanh , từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội và xa hơn nữa là cả thế giới. Để làm gì ? Để CÓ ĐƯỢC THÁI ĐỘ VÀ CÁCH HÀNH XỬ ĐÚNG ĐẮN. Phản biện xã hội không chỉ là biết suông, nói suông mà phải đi đôi với hành động thực tiễn .
Một người có học hành, có bằng cấp mà vẫn u mê nhận định vấn đề sai lạc thì không được coi là trí thức, mà phải gọi là trí ngủ, tức là có đầu óc nhưng vẫn mê muội.
Những người trí thức nhận định đúng vấn đề nhưng lại hành xử trái ngược với những gì chính mình hiểu thì được liệt vào hàng "trí thức cục phân", tức là trí thức vô dụng, thuộc loại dài lưng tốn vải.
Còn trí thức biết nhận định đúng vấn đề, biết luôn mình phải làm gì nhưng sợ hãi không dám làm, hay vì quyền lợi cá nhân mà tìm cách tránh né không làm thì gọi là trí thức hèn, loại trí thức có óc mà không có xương sống. Ngô Bảo Châu, Nguyễn Hữu Liêm thuộc vào loại này.
Sau cùng là những người trí thức đúng nghĩa, vừa có đầu óc minh mẫn nhận định chính xác vấn đề , vừa có lương tâm và tinh thần trách nhiệm thúc đẩy họ hành xử sao cho đúng với sự hiểu biết của mình .. thì riêng tại VN họ không được gọi là trí thức mà bị gọi là bọn phản động, bọn chống phá nhà nước và đa số họ ngày nay đều đang ngồi trong tù.
Nói tóm lại, trí thức mà chỉ biết đúng sai trên lý thuyết thôi chứ chưa dám hành xử sao cho phù hợp thì cũng chỉ là những con robot giỏi làm toán nhưng vẫn hoạt động theo chương trình đã được programmed sẵn, chưa xứng đáng được đặt vào hàng sĩ .
Tai sao vào thời điểm này người ta lại quan tâm đến giới trí thức và chờ đợi nhiều từ họ vậy?
Từ trước đến nay người dân VN rất giỏi về đấu tranh quân sự, đứng trước kẻ thù xâm lược nào chúng ta cũng không sợ, và đã từng đánh thắng những đạo quân khổng lồ hùng mạnh vào bậc nhất thế giới . Hầu như tất cả các vị anh hùng dân tộc của VN ta đều xuất thân là con nhà võ tướng, từ hai Bà Trưng đến Quang Trung Nguyễn Huệ rồi Đức Trần Hưng Đạo... đều là những nhà lãnh đạo quân sự, giải phóng quê hương bằng con đường vũ lực. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nước nhà, người dân VN phải đấu tranh giành lại quyền tự quyết bằng con đường đấu tranh chính trị, bất bạo động. Đấu tranh chính trị mà không trông cậy vào hàng ngũ trí thức dám ăn dám nói thì làm sao đấu tranh đây?
Cướp chính quyền theo bài bản của Lenin - Stalin - dùng bạo lực cách mạng - thì cần giai cấp công nông làm thành phần chủ lực, còn đấu tranh và xây dựng một đất nước dân chủ thì thành phần trí thức mới là chủ yếu. Rất tiếc là sau mấy chục năm sống dưới chê' độ ngu dân, đốt sách, nhồi sọ học trò của CS, số nhân sĩ trí thức thật sự có khả năng và bản lãnh, chẳng còn được bao nhiêu người .
Một người có học hành, có bằng cấp mà vẫn u mê nhận định vấn đề sai lạc thì không được coi là trí thức, mà phải gọi là trí ngủ, tức là có đầu óc nhưng vẫn mê muội.
Những người trí thức nhận định đúng vấn đề nhưng lại hành xử trái ngược với những gì chính mình hiểu thì được liệt vào hàng "trí thức cục phân", tức là trí thức vô dụng, thuộc loại dài lưng tốn vải.
Còn trí thức biết nhận định đúng vấn đề, biết luôn mình phải làm gì nhưng sợ hãi không dám làm, hay vì quyền lợi cá nhân mà tìm cách tránh né không làm thì gọi là trí thức hèn, loại trí thức có óc mà không có xương sống. Ngô Bảo Châu, Nguyễn Hữu Liêm thuộc vào loại này.
Sau cùng là những người trí thức đúng nghĩa, vừa có đầu óc minh mẫn nhận định chính xác vấn đề , vừa có lương tâm và tinh thần trách nhiệm thúc đẩy họ hành xử sao cho đúng với sự hiểu biết của mình .. thì riêng tại VN họ không được gọi là trí thức mà bị gọi là bọn phản động, bọn chống phá nhà nước và đa số họ ngày nay đều đang ngồi trong tù.
Nói tóm lại, trí thức mà chỉ biết đúng sai trên lý thuyết thôi chứ chưa dám hành xử sao cho phù hợp thì cũng chỉ là những con robot giỏi làm toán nhưng vẫn hoạt động theo chương trình đã được programmed sẵn, chưa xứng đáng được đặt vào hàng sĩ .
Tai sao vào thời điểm này người ta lại quan tâm đến giới trí thức và chờ đợi nhiều từ họ vậy?
Từ trước đến nay người dân VN rất giỏi về đấu tranh quân sự, đứng trước kẻ thù xâm lược nào chúng ta cũng không sợ, và đã từng đánh thắng những đạo quân khổng lồ hùng mạnh vào bậc nhất thế giới . Hầu như tất cả các vị anh hùng dân tộc của VN ta đều xuất thân là con nhà võ tướng, từ hai Bà Trưng đến Quang Trung Nguyễn Huệ rồi Đức Trần Hưng Đạo... đều là những nhà lãnh đạo quân sự, giải phóng quê hương bằng con đường vũ lực. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nước nhà, người dân VN phải đấu tranh giành lại quyền tự quyết bằng con đường đấu tranh chính trị, bất bạo động. Đấu tranh chính trị mà không trông cậy vào hàng ngũ trí thức dám ăn dám nói thì làm sao đấu tranh đây?
Cướp chính quyền theo bài bản của Lenin - Stalin - dùng bạo lực cách mạng - thì cần giai cấp công nông làm thành phần chủ lực, còn đấu tranh và xây dựng một đất nước dân chủ thì thành phần trí thức mới là chủ yếu. Rất tiếc là sau mấy chục năm sống dưới chê' độ ngu dân, đốt sách, nhồi sọ học trò của CS, số nhân sĩ trí thức thật sự có khả năng và bản lãnh, chẳng còn được bao nhiêu người .
GHH gởi trực tiếp cho KVTT
![]() |
| (Ảnh: FB Bùi Quang Minh) |
FB Bùi Quang Minh - Đầu Tết Nhâm Thìn, xin hầu chuyện bà con bài viết sau:
"... Ôi! Thế giới ngày nay dân trí tiến bộ mỗi ngày ngàn dặm, trước vài mươi năm nay, vua các nước lập hiến đã đem mọi chánh sự lớn nhỏ của quốc gia, hai tay dâng trả lại cho quốc dân, không dám hỏi đến, duy ngày đêm mong ước được giữa cái hư danh ở trên thần dân, khỏi mất nối dòng để xấu hổ đến tôn miếu, thì đã coi là cái phước lớn tày trời rồi, nhưng đến nay quốc dân họ còn lấy làm khó chịu, còn lo trăm kế bỏ đi, để đạt được đến cái chủ nghĩa bình dân chân chính mới hả dạ.
Vậy thì từ nay cái ngày tàn quân chủ trong thế giới cũng không xa mấy, không cần phải khôn ngoan lắm mới biết vậy. Chẳng nói đâu xa, gần đây trong thời Âu chiến, bị quốc dân giết hoặc đuổi đi đã có 38 vua, trong đó có 3 ông đại hoàng đế rồi.
Như đã nói, chính thể nước ta, từ xưa là quân chủ độc tài, chính trị hay dở, quan lại hiền ngu, quốc dân không được hỏi đến. Nay thời thế nước càng ngày càng suy vi, mất cả cái tên Việt Nam trong bản đồ thế giới. Hãy xem các nước Á Đông, Tàu, Nhật không nói, còn Xiêm La (Thái Lan nay) là một nước xưa kia dân ta không thèm đứng ngang hàng, thế mà nay họ nghiễm nhiên đứng trong vòng bình đẳng với vạn quốc. Lại như Nam, Bắc hai kỳ, ở dưới quyền kinh lý của nước Pháp, sớm thoát ly những ràng buộc của chuyên chế, cho nên những cái tệ quan lại, trộm cướp cũng bơn bớt, khiến cho công thương được phát đạt, nông lợi được sửa sang, dân sinh ngày nay có hơi khởi sắc. Còn 12 tỉnh Trung Kỳ thuộc khu vực bảo hộ, thì rên rỉ mãi dưới chính thể chuyên chế vô trách nhiệm, không biết dựa vào đâu để nuôi chút hơi tàn! Đó là tội của ai? Tội của ai? xem đó thì chẳng những quân chủ hiện tại phải truất, mà xét đến nguồn gốc nguyên nhân sâu xa, thì quân chủ các đời đã qua cũng không tránh khỏi búa rìu công luận của quốc dân vậy.
Ôi! Xu thế bên ngoài đã như thế kia, mà tình thế nước ta lại như thế này, thì cái ngôi Bệ hạ, đã nguy tợ trứng mỏng, thật như lời Hiến Đế nhà Hán đã nói: "Mạng của trẫm chẳng biết mất, còn ngày nào đây!". Vậy mà Bệ hạ còn mê muột không biết tự ví mình với thần thánh, dắt bầy tiểu nhân núp bóng làm càn, công nhiên buông thói ăn lo ăn lót, người ta nói không kể, dân nói không hay, lại còn nghịch thời thế, trái nhân tâm, nhen lại bếp tro tàn chuyên chế, dứt hẳn cái dân khí đã thương tổn lâu ngày, quơ hết châu báu của nước, quét sạch tài sản của dân, lo phần tư kỷ một mình, quên cái oán của muôn dân.
Thử hỏi: quốc thổ Việt Nam có phải là tư sản của Bệ hạ hay sao? Hai mươi triệu quốc dân há phải là gia bộc của Bệ hạ hay sao? Quan lại nước ta mục nát còn sợ chưa quá chừng hay chăng, mà con phải có Bệ hạ làm lớn thêm lòng gian tham nữa? Máu mỡ của quốc dân ta còn sợ chưa khô hết hay chăng mà còn phải có Bệ hạ hoang phí vung vãi nữa? Danh hiệu nước Việt Nam còn e chưa nhơ nhuốc chăng, mà còn phải có Bệ hạ ra dâng mùi hôi thúi, làm cho thiên hạ chê cười khinh dể chẳng còn kể là loài người nữa? Than ôi! Nước ta tội gì mà phải chịu cái nghiệp chướng ấy? Dân ta tội gì mà phải đội thứ nước vua quỷ ấy? Nếu không cùng quần chúng trừ khử nó đi, tất phải cùng nó chết đắm nay mai thôi!
Tôi viết đến đây, bút đã cùn, tay đã mỏi, giấy đã hết, mà điều tôi muốn nói hãy còn chưa hết. Tôi phải khăng khăng mấy ngàn lời mà không thôi đó, chẳng phải công kích cá nhân Bệ hạ, mà là công kích hôn quân vậy; cũng không phải vì tư kỷ của tôi mà làm, mà vì hai mươi triệu đồng bào xô ngã chuyên chế, ủng hộ tự do vậy. Thầy Mạnh Tử nói rằng: "Đâu phải ưa biện luận, bất đắc dĩ mà thôi", tâm sự của tôi cũng là thế ấy đó.
Nếu như Bệ hạ có đủ thiên lương, biết chút hối ngộ, biết quân quyền không thể cậy được, dân oán không thể khi được (không thể lừa dối, coi thường, khinh rẻ), thì phải sớm quay về, tự thoái vị trước, đem chính quyền dâng trả lại cho quốc dân ta, để họ trực tiếp cùng dân tộc Pháp tự mưu lấy lợi ích của họ, như vậy thì quốc dân ta còn lượng tình, không đãi bạc, cái kế của Bệ hạ không còn kế nào hơn.
![]() |
| (Ảnh: FB Bùi Quang Minh) |
Ví bằng cậy chuyến đi này, thêm lòng táo bạo, không kể gì hết, cứ khư khư cắp ngôi chí tôn, cứ thi oai chuyên chế, làm đứt mạng mạch của nước trong khi sắp hết, đánh đắm quốc dân trong kiếp khổ lâu dài, nếu vậy thì tôi tất phải: trong cáo với quốc dân, ngoài hiệp với nước Pháp, vì hai mươi triệu đồng bào, cùng Bệ hạ tuyên chiến quyết liệt, nguyện để cho cái đầu của tôi cùng với dân quyền chuyên chế dã man của Bệ hạ đồng thời rơi xuống đất, quyết không nỡ thấy vài mươi vạn dặm vuông giang sơn đất nước, vài mươi triệu cha mẹ anh em, phải giao đứt vào tay hôn quân vậy!"
(Trích Thư thất điếu, Phan Châu Trinh viết ngày 12/7/1922 gửi nhân chuyến vua Khải Định thăm Marseille, Pháp)
Anhbasam - Đôi lời: Một thông điệp rõ ràng về “một thông điệp hết sức sáng sủa”! “Không có phản biện, xã hội đã chết lâm sàng”, nhưng “tôi” chấp nhận cái chết đó.
Tại sao cứ bắt/muốn người ta nghĩ, làm như ta (muốn). “Người ta” đã chót dại, muốn bằng danh tiếng của mình để hòng mau chóng biến đổi xã hội cho bằng thiên hạ, nhưng giờ đã tỉnh ra rồi, chấp nhận cũng với danh tiếng, chuyên môn ấy, chỉ xin làm cái chức phận nhỏ nhoi thôi.
Tội lỗi tất cả là ở những kẻ khốn cùng quá khát khao có được người nói thay cho mình, khi có thì quá vội tin, rồi vỡ mộng. Đừng có mà nguyền rủa “người trong mộng”!
Lực của người trí thức trong thế giới toàn trị
Phạm Toàn
Tại sao một thông điệp hết sức sáng sủa, mạch lạc của giáo sư Ngô Bản Châu lại bị rất nhiều người hiểu lầm, hiện tượng tâm lý đó rất cần được phân tích.
Đây là quan điểm gốc đã được Ngô Bảo Châu nói trên Tuổi trẻ cuối tuần:
Đối với tôi, trí thức là người lao động trí óc. Cũng như những người lao động khác, anh ta cần được đánh giá trước hết trên kết quả lao động của mình. […] giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội.
Nghĩ rằng ý tứ của mệnh đề gốc này thế là quá rõ: trí thức là người lao động (dĩ nhiên, đó là loại lao động trí óc) – và đã là người lao động thì phải làm ra sản phẩm (dĩ nhiên, đó là loại sản phẩm của trí óc, và thuộc chuyên ngành của mình).
Chỗ gây hiểu lầm ở đây là khi Ngô Bảo Châu làm cho bạn đọc hiểu rằng giá trị của người trí thức hình như chỉ là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, và không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội của nhà trí thức hết. Thực ra thì người trí thức bao giờ cũng có hai trách nhiệm – một trách nhiệm nghiệp vụ và một trách nhiệm xã hội, một trách nhiệm vật chất và một trách nhiệm tinh thần.
Cũng cần nói luôn rằng, trước việc gánh vác hai trách nhiệm đó, người trí thức được hoàn toàn tự do, và mọi người cũng không nên và càng không có quyền áp đặt cho người trí thức những nhiệm vụ (công việc) theo cách nghĩ chủ quan của mình.
Có một điều thú vị là tại sao lại có cái tâm lý trong xã hội muốn lôi cuốn mọi nhà trí thức, nhất là những người như Ngô Bảo Châu, vào những công việc “phản biện” khó khăn, rắc rối, phức tạp?
Đó là tâm lý sinh ra từ nỗi sợ đã được tạo ra và nuôi dưỡng bởi một thứ quyền lực không cho phép ai được cãi. Thật vậy, bài học vẫn còn sờ sờ từ năm chục năm trước, chỉ vì những “góp ý kiến” chân thành mà vô số người đã “da ngựa bọc thây” – những tên tuổi Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Dần, Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang … cả một danh sách dài những số phận tuẫn đạo.
Thế nhưng, cuộc sống thực có sức mạnh vô biên – trong đời sống xã hội lại vẫn cứ hình thành dần một sự bất phục tùng dân sự đối với nhiều điều bị coi là sai trái trong việc điều hành và tổ chức xã hội.
Nguyễn Văn Linh là người cán bộ chính trị đầu tiên vô tình châm ngòi cho sự bất phục tùng dân sự khiến đã nổ bùng một cao trào không chịu “bẻ cong ngòi bút” và không “ăn theo nói leo”.
Song thực ra công lao Nguyễn Văn Linh chẳng đáng gì trong việc bật nút cho nỗi đau xã hội lộ diện – Phùng Gia Lộc mới thực sự là người anh hùng đã soi bó đuốc cho thấy cái đêm hôm ấy đêm gì – cái đêm trước thời đổi mới.
Dám nói đến công lao ấy và nói rõ sự so sánh ấy, bằng chứng là Nguyễn Văn Linh hô hoán xong thì vẫn an toàn, trong khi Phùng Gia Lộc in xong bài phóng sự thì phải chui nhủi muốn chết!
Vài chục năm sau, ngay cả với sự bùng nỗ thông tin, dù có thấy đội quân phẫn nộ đã lớn, song nỗi sợ cũ vẫn còn nguyên. Viên đại tá có tấm lòng cao quý bút danh Lê Hoài Nguyên cũng chỉ rất dè dặt thận trọng gãi gãi lại vụ án Nhân văn – Giai phẩm. Nhưng hành động của anh giữ hộ rồi trao trả gia đình Trần Dần những tài liệu quý cho thấy các thày tu trung thực cũng có xoa dịu được phần nào cái tàn ác Trung Cổ.
Dẫu sao, cái ác đâu có dễ dàng xóa bỏ trong một đêm? Những nhà trí thức bất phục tùng đầu tiên của thời Internet đã nghĩ ra thuật ngữ phản biện để che chắn cho một làn sóng, đồng thời cũng tìm cách cho cái ác đỡ run sợ và đỡ làm liều trước cái thiện.
Vậy thôi, nhưng bạn Ngô Bảo Châu đã không lưu tâm tới nỗi sợ trong cuộc đời thực của từng con người trong một xã hội toàn trị. Và người ta phản pháo bạn!
Người ta không lắng nghe kỹ lưỡng thông điệp của Ngô Bảo Châu gửi đi tới đâu thì đã quá rõ: không có phản biện, xã hội đã chết lâm sàng. Xin lưu ý cách nói chết lâm sàng – nó gợi lên hình ảnh một xác chết vẫn như còn đang sống, vẫn thở khò khò như đang tập khí công, thức ăn vẫn chui vào bụng qua lỗ mũi, ấy vậy mà vẫn chưa thể triệu tập cuộc hội nghị quan trọng bàn việc phát tang.
Ngô Bảo Châu nói với cả hai phe – giới “trí thức phản biện” và nhà “lãnh đạo lương thiện” giả định là “văn minh và có bản lĩnh”:
Những người có học, có tri thức thật ra cần phải rất tỉnh táo khi tham gia việc phản biện xã hội. Học hàm, học vị không thể đảm bảo rằng cái anh nói ra là mặc nhiên đúng. Với thói quen làm việc khoa học của mình, cái mà anh có thể làm là đưa ra những lập luận vững chắc và có tính thuyết phục. Nhà lãnh đạo văn minh, có bản lĩnh sẽ biết lắng nghe những lập luận đó. Họ có thể làm theo hoặc không làm theo kết luận của anh. Trong trường hợp họ không làm theo, vẫn dưới giả thiết là lãnh đạo văn minh và có bản lĩnh, lãnh đạo sẽ phải đưa ra những lập luận ít nhất cũng vững chắc bằng những lập luận của anh để bảo vệ quyết định của mình.
Thật khó hiểu, tại sao nhiều bạn đọc không thấy Ngô Bảo Châu nói với cả hai ba bốn năm phe rằng chúng ta không phe nào được phép độc quyền chân lý.
Rành rọt đến thế mà vẫn phản ứng, tại sao? Nghĩ rằng, có lẽ đó là vì Ngô Bảo Châu đã chạm vào một sai lầm về nhận thức rất phổ biến hiện thời.
Cùng với cao trào “phản biện”, người ta kháo nhau và mở to TiVi nghe và vỗ tay rầm rầm cổ vũ cho lời nói. Có ông nghị gần suốt hai nhiệm kỳ chỉ nói những điều vô thưởng vô phạt, gần hết nhiệm kỳ bỗng uống thuốc quá liều đòi hỏi quá đáng đụng chạm vào những lợi ích phe nhóm. Thế là cái guồng máy vốn cho phép được mở miệng cũng ra lệnh bịt miệng.
Đến nước ấy rồi mà vẫn không chịu tỉnh ngộ nghe lời Ngô Bảo Châu hãy lao động và làm ra sản phẩm theo đúng chuyên môn hẹp của mình đi. Muộn rồi, bây giờ mới thấy lao động quả thật là rất khó. Sản phẩm lao động tạo ra chẳng dễ gì!
Ấy vậy nhưng trong “giới phản biện” vẫn có anh chưa tỉnh ngộ. Chứng cớ là vẫn có người chuyện gì cũng tham gia phản biện được, chẳng hạn lên tiếng định nghĩa khái niệm tự in đậm trong blog như thế này:
Không có gì siêu hình, rẻ tiền và dễ dãi hơn!
Ta có thể thích hòn sỏi hoặc không thích hòn sỏi, nhưng đâu có vì ý nghĩ của ta (hoặc vì dư luận xã hội) mà hòn sỏi mất đi thuộc tính sỏi của nó và trở thành mềm mại dễ uốn như cái lưng và cái lưỡi? Ta có thể thích hoặc không thích mắm tôm, nhưng đâu có vì “dư luận xã hội” ấy mà mắm tôm có thể dùng thay dầu gội đầu hoặc nước hoa Chanel?
Xin hãy khiêm nhường và hãy ngừng công kích Ngô Bảo Châu. Hãy để anh ấy làm việc theo cung cách với niềm tin rằng ít nhất anh ấy cũng biết cách không làm liều. Nên nhớ là tất cả mọi người vẫn đang sống trong một thế giới toàn trị vừa đầy sức mạnh vừa đầy mánh khóe. Và cái Lực của mỗi người, dù là người trí thức đấy, thì cũng mong manh như cây sậy mà thôi.
Sớm mồng Ba Tết Nhâm Thìn
P.T.
Tại sao cứ bắt/muốn người ta nghĩ, làm như ta (muốn). “Người ta” đã chót dại, muốn bằng danh tiếng của mình để hòng mau chóng biến đổi xã hội cho bằng thiên hạ, nhưng giờ đã tỉnh ra rồi, chấp nhận cũng với danh tiếng, chuyên môn ấy, chỉ xin làm cái chức phận nhỏ nhoi thôi.
Tội lỗi tất cả là ở những kẻ khốn cùng quá khát khao có được người nói thay cho mình, khi có thì quá vội tin, rồi vỡ mộng. Đừng có mà nguyền rủa “người trong mộng”!
Lực của người trí thức trong thế giới toàn trị
Phạm Toàn
Tại sao một thông điệp hết sức sáng sủa, mạch lạc của giáo sư Ngô Bản Châu lại bị rất nhiều người hiểu lầm, hiện tượng tâm lý đó rất cần được phân tích.
Đây là quan điểm gốc đã được Ngô Bảo Châu nói trên Tuổi trẻ cuối tuần:
Đối với tôi, trí thức là người lao động trí óc. Cũng như những người lao động khác, anh ta cần được đánh giá trước hết trên kết quả lao động của mình. […] giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội.
Nghĩ rằng ý tứ của mệnh đề gốc này thế là quá rõ: trí thức là người lao động (dĩ nhiên, đó là loại lao động trí óc) – và đã là người lao động thì phải làm ra sản phẩm (dĩ nhiên, đó là loại sản phẩm của trí óc, và thuộc chuyên ngành của mình).
Chỗ gây hiểu lầm ở đây là khi Ngô Bảo Châu làm cho bạn đọc hiểu rằng giá trị của người trí thức hình như chỉ là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, và không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội của nhà trí thức hết. Thực ra thì người trí thức bao giờ cũng có hai trách nhiệm – một trách nhiệm nghiệp vụ và một trách nhiệm xã hội, một trách nhiệm vật chất và một trách nhiệm tinh thần.
Cũng cần nói luôn rằng, trước việc gánh vác hai trách nhiệm đó, người trí thức được hoàn toàn tự do, và mọi người cũng không nên và càng không có quyền áp đặt cho người trí thức những nhiệm vụ (công việc) theo cách nghĩ chủ quan của mình.
Có một điều thú vị là tại sao lại có cái tâm lý trong xã hội muốn lôi cuốn mọi nhà trí thức, nhất là những người như Ngô Bảo Châu, vào những công việc “phản biện” khó khăn, rắc rối, phức tạp?
Đó là tâm lý sinh ra từ nỗi sợ đã được tạo ra và nuôi dưỡng bởi một thứ quyền lực không cho phép ai được cãi. Thật vậy, bài học vẫn còn sờ sờ từ năm chục năm trước, chỉ vì những “góp ý kiến” chân thành mà vô số người đã “da ngựa bọc thây” – những tên tuổi Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Dần, Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang … cả một danh sách dài những số phận tuẫn đạo.
Thế nhưng, cuộc sống thực có sức mạnh vô biên – trong đời sống xã hội lại vẫn cứ hình thành dần một sự bất phục tùng dân sự đối với nhiều điều bị coi là sai trái trong việc điều hành và tổ chức xã hội.
Nguyễn Văn Linh là người cán bộ chính trị đầu tiên vô tình châm ngòi cho sự bất phục tùng dân sự khiến đã nổ bùng một cao trào không chịu “bẻ cong ngòi bút” và không “ăn theo nói leo”.
Song thực ra công lao Nguyễn Văn Linh chẳng đáng gì trong việc bật nút cho nỗi đau xã hội lộ diện – Phùng Gia Lộc mới thực sự là người anh hùng đã soi bó đuốc cho thấy cái đêm hôm ấy đêm gì – cái đêm trước thời đổi mới.
Dám nói đến công lao ấy và nói rõ sự so sánh ấy, bằng chứng là Nguyễn Văn Linh hô hoán xong thì vẫn an toàn, trong khi Phùng Gia Lộc in xong bài phóng sự thì phải chui nhủi muốn chết!
Vài chục năm sau, ngay cả với sự bùng nỗ thông tin, dù có thấy đội quân phẫn nộ đã lớn, song nỗi sợ cũ vẫn còn nguyên. Viên đại tá có tấm lòng cao quý bút danh Lê Hoài Nguyên cũng chỉ rất dè dặt thận trọng gãi gãi lại vụ án Nhân văn – Giai phẩm. Nhưng hành động của anh giữ hộ rồi trao trả gia đình Trần Dần những tài liệu quý cho thấy các thày tu trung thực cũng có xoa dịu được phần nào cái tàn ác Trung Cổ.
Dẫu sao, cái ác đâu có dễ dàng xóa bỏ trong một đêm? Những nhà trí thức bất phục tùng đầu tiên của thời Internet đã nghĩ ra thuật ngữ phản biện để che chắn cho một làn sóng, đồng thời cũng tìm cách cho cái ác đỡ run sợ và đỡ làm liều trước cái thiện.
Vậy thôi, nhưng bạn Ngô Bảo Châu đã không lưu tâm tới nỗi sợ trong cuộc đời thực của từng con người trong một xã hội toàn trị. Và người ta phản pháo bạn!
Người ta không lắng nghe kỹ lưỡng thông điệp của Ngô Bảo Châu gửi đi tới đâu thì đã quá rõ: không có phản biện, xã hội đã chết lâm sàng. Xin lưu ý cách nói chết lâm sàng – nó gợi lên hình ảnh một xác chết vẫn như còn đang sống, vẫn thở khò khò như đang tập khí công, thức ăn vẫn chui vào bụng qua lỗ mũi, ấy vậy mà vẫn chưa thể triệu tập cuộc hội nghị quan trọng bàn việc phát tang.
Ngô Bảo Châu nói với cả hai phe – giới “trí thức phản biện” và nhà “lãnh đạo lương thiện” giả định là “văn minh và có bản lĩnh”:
Những người có học, có tri thức thật ra cần phải rất tỉnh táo khi tham gia việc phản biện xã hội. Học hàm, học vị không thể đảm bảo rằng cái anh nói ra là mặc nhiên đúng. Với thói quen làm việc khoa học của mình, cái mà anh có thể làm là đưa ra những lập luận vững chắc và có tính thuyết phục. Nhà lãnh đạo văn minh, có bản lĩnh sẽ biết lắng nghe những lập luận đó. Họ có thể làm theo hoặc không làm theo kết luận của anh. Trong trường hợp họ không làm theo, vẫn dưới giả thiết là lãnh đạo văn minh và có bản lĩnh, lãnh đạo sẽ phải đưa ra những lập luận ít nhất cũng vững chắc bằng những lập luận của anh để bảo vệ quyết định của mình.
Thật khó hiểu, tại sao nhiều bạn đọc không thấy Ngô Bảo Châu nói với cả hai ba bốn năm phe rằng chúng ta không phe nào được phép độc quyền chân lý.
Rành rọt đến thế mà vẫn phản ứng, tại sao? Nghĩ rằng, có lẽ đó là vì Ngô Bảo Châu đã chạm vào một sai lầm về nhận thức rất phổ biến hiện thời.
Cùng với cao trào “phản biện”, người ta kháo nhau và mở to TiVi nghe và vỗ tay rầm rầm cổ vũ cho lời nói. Có ông nghị gần suốt hai nhiệm kỳ chỉ nói những điều vô thưởng vô phạt, gần hết nhiệm kỳ bỗng uống thuốc quá liều đòi hỏi quá đáng đụng chạm vào những lợi ích phe nhóm. Thế là cái guồng máy vốn cho phép được mở miệng cũng ra lệnh bịt miệng.
Đến nước ấy rồi mà vẫn không chịu tỉnh ngộ nghe lời Ngô Bảo Châu hãy lao động và làm ra sản phẩm theo đúng chuyên môn hẹp của mình đi. Muộn rồi, bây giờ mới thấy lao động quả thật là rất khó. Sản phẩm lao động tạo ra chẳng dễ gì!
Ấy vậy nhưng trong “giới phản biện” vẫn có anh chưa tỉnh ngộ. Chứng cớ là vẫn có người chuyện gì cũng tham gia phản biện được, chẳng hạn lên tiếng định nghĩa khái niệm tự in đậm trong blog như thế này:
Trí thức là sự cảm nhận của người khác, là sự quan sát, nhận định từ bên ngoài, đánh giá một con người dựa vào những tiêu chí mà người quan sát, nhận định có sẵn trong đầu.
Không có gì siêu hình, rẻ tiền và dễ dãi hơn!
Ta có thể thích hòn sỏi hoặc không thích hòn sỏi, nhưng đâu có vì ý nghĩ của ta (hoặc vì dư luận xã hội) mà hòn sỏi mất đi thuộc tính sỏi của nó và trở thành mềm mại dễ uốn như cái lưng và cái lưỡi? Ta có thể thích hoặc không thích mắm tôm, nhưng đâu có vì “dư luận xã hội” ấy mà mắm tôm có thể dùng thay dầu gội đầu hoặc nước hoa Chanel?
Xin hãy khiêm nhường và hãy ngừng công kích Ngô Bảo Châu. Hãy để anh ấy làm việc theo cung cách với niềm tin rằng ít nhất anh ấy cũng biết cách không làm liều. Nên nhớ là tất cả mọi người vẫn đang sống trong một thế giới toàn trị vừa đầy sức mạnh vừa đầy mánh khóe. Và cái Lực của mỗi người, dù là người trí thức đấy, thì cũng mong manh như cây sậy mà thôi.
Sớm mồng Ba Tết Nhâm Thìn
P.T.
![]() |
| (Ảnh: teolangthang.blogspot.com) |
Lethieunhon.com - Trên mạng Basam, ngay ngày đầu năm âm lịch, đã đăng một loạt bài về người trí thức. Thiết tưởng trong lúc đất nước rất cần đến đội ngũ trí thức và hiền tài để xây dựng kiến thiết dân tộc thành một quốc gia văn minh hùng mạnh, thì những bài đánh động vào giới trí thức tinh hoa quả là hữu ích ! Nhưng tôi đã đọc nhiều bài viết về trí thức, nói chung tôi có một cảm nhận (dù không đầy đủ ), rằng trí thức người Việt sao mà còn tiểu nông quê mùa ấm ớ, ấp úng làm vậy. Người Việt có câu “thuốc đắng giã tật”, vì thế tôi muốn tranh biện thẳng thừng, mong rằng đó là cách trực tiếp để chúng ta phản tỉnh đánh thức mình, chứ không muốn quanh co ấp úng để chiêu đãi nhau một bữa tiệc ngọt hòa cả làng, để rồi vấn đề dù quan trọng đến mấy cũng chỉ trở thành tiếng đáp nửa vời còn chưa ngã ngũ.
HIỂU TRI THỨC VÀ HÀNH ĐỘNG BẰNG TRI THỨC
NGUYỄN HOÀNG ĐỨC
Để tránh sa vào lối áp đặt chủ quan vô trách nhiệm, tôi xin nêu ra mấy cơ sở hiện thực:
1. Theo đánh giá chung của nhiều nhà khoa học, người châu Á có thể tạng yếu ớt, mũi tẹt vai xuôi, nói chung là bộ thở thuộc tim và huyết hạn chế, nên hay ăn nói nước đôi nhì nhằng, không có tính quyết đoán.
HIỂU TRI THỨC VÀ HÀNH ĐỘNG BẰNG TRI THỨC
NGUYỄN HOÀNG ĐỨC
Để tránh sa vào lối áp đặt chủ quan vô trách nhiệm, tôi xin nêu ra mấy cơ sở hiện thực:
1. Theo đánh giá chung của nhiều nhà khoa học, người châu Á có thể tạng yếu ớt, mũi tẹt vai xuôi, nói chung là bộ thở thuộc tim và huyết hạn chế, nên hay ăn nói nước đôi nhì nhằng, không có tính quyết đoán.
2. Tại các cuộc hội thảo khoa học, khi được phát phiếu mời nhận xét đưa ra quan điểm, thì các học giả châu Á thường có ý kiến muôn thủa – rất ít kỳ vọng vào sáng kiến, bởi vì họ thường đưa ra ý kiến nước đôi, hoặc nước ba, nước bốn, tóm lại là một giải pháp toàn thể, thế này cũng không tốt, thế kia cũng chẳng hay, mà nên có một giải pháp đồng bộ. Một mũi tên cùng lúc muốn bay nhiều hướng, thì nó chẳng bay đi đâu cả. Và một lời đáp đồng bộ cũng có nghĩa là chẳng có gì cả.
3. Việt Nam chúng ta cũng nằm trong những đặc điểm này, đặc biệt chưa bàn đến những môn khoa học cao cấp như vật lý hay toán học, ngay đến văn học là cái viết bằng chữ nghĩa ai cũng đọc được, thì cái gọi là tác phẩm đồ sộ hẳn hoi mang tính tư tưởng cao của chúng ta vẫn chỉ đang là một chân trời xa vời vợi đang được ngắm vào ống kính sắp chế tạo ở thì tương lai.
Có rất nhiều tác giả đã bàn đến từ trí thức, họ bắt nguồn từ gốc Latin “intellect”. Họ bàn rất rộng rất kỹ về tiền từ này với một dãy đuôi nào là trí tuệ, trí khôn, tri thức, người trí thức… Theo tôi, “tri thức” hay “trí thức” chỉ là một, vì đây là từ đi vòng qua nghĩa Hán tự vào tiếng Việt, mà bản thân chữ Hán thì không có dấu, còn người Việt thì thường thêm dấu vào trong khẩu ngữ của mình. Vả lại có một điều quan trọng nhất trong ngôn ngữ đó là: gốc căn bản của từ là gì? Và từ đó phát triển ra bao nhiêu nghĩa tùy thuộc đồng tâm từ gốc chính duy nhất của nó.
Việc tranh luận cầu kỳ về tri thức chỉ là cách bổ dưỡng trí thức chứ không thay thế được việc con người vẫn dùng đến tri thức để hành động. Chẳng hạn như triết gia Kant đã thừa nhận “khi nói về thời gian chúng ta chẳng biết gì cả”, nhưng chúng ta vẫn sống bằng thước đo thời gian như hẹn gặp mặt, hẹn hợp đồng, hẹn hội thảo, hẹn cưới xin. Bàn về tri thức và người trí thức cách dễ hiểu nhất chúng ta hãy tham chiếu cái nhìn căn bản của triết gia Platon: Quốc gia là hệ thống được ví như các thành phần trong cơ thể. Phần sản xuất giống như lo cho dạ dầy. Phần danh dự, dũng cảm giống như tim. Còn tầng lớp suy nghĩ giống như bộ não. Người trí thức quan trọng cho quốc gia bởi lẽ họ là bộ não của dân tộc. Bộ não đó tham dự vào lãnh đạo cơ thể ngay cả lúc sản xuất, chiến đấu, cũng như thụ hưởng.
Giờ tôi xin được bàn vào bài “Trí thức, trí ngủ và trí trá” của tác giả Lê Phú Khải, hy vọng rằng tôi không chỉ đối thoại với t/g L.P.Khải, mà là với một cách nghĩ còn rất nước đôi này. Trong bài của mình, tác giả rất coi thường loại trí thức bao cấp ăn lương, và đề cao trí thức “dân sự” có tư duy độc lập. Tác giả viết: Vì thế quan chức Nhà nước là những người vừa có quyền, vừa có uy, thế mới gọi là uy quyền, nhưng dù uy quyền đến mấy, khi đã ngồi vào ghế quan chức thì anh chỉ là một công chức, một viên nha lại mà thôi. Đã là nha lại thì phải từ lời nói đến việc làm, dù làm viện trưởng, vụ trưởng, thứ trưởng,… nhất nhất phải nghe lời cấp trên. Không thể có sáng tạo gì được, không thể được xã hội xem là trí thức. Đổi lại anh ta được lương cao bổng hậu, vợ đẹp con khôn, phú quý của đời. Một bộ phận khác, dù đỗ đạt cao, nhưng không chịu chui vào bộ máy quan chức, mà làm nghề tự do như bác sỹ, kiến trúc sư, luật sư, nhà báo, nhà văn…. Tầng lớp này dám tư duy độc lập, dám ăn dám nói, dám phụng sự lẽ phải…. Họ chính là trí thức của nhân dân Pháp. Họ có thể bị bầm dập nhưng được xã hội kính trọng.
Thế rồi cuối bài tác giả lại viết :
Năm thiếu tá phi công vũ trụ Ti Tốp sang thăm Việt Nam. Ta có tổ chức 1 buổi gặp mặt giữa phi hành gia vũ trụ với các nhà khoa học VN, khi thiếu tá Ti Tốp khuyên các nhà khoa học VN nghiên cứu vũ trụ và đi vào lĩnh vực vụ trụ, bỗng Bác Hồ đứng ngay dậy, ngắt lời thiếu tá Ti Tốp, Bác khuyên các nhà khoa học VN nên nghiên cứu các khoa học là là mặt đất thôi! Giáo sư Trần Kiên kết luận "Tôi đã suy nghĩ nhiều về lới khuyên của Bác và chuyển đề tài "Thần kinh cá chép" của tôi rất được các nhà khoa học thế giới quan tâm sang nghiên cứu đề tài "là là mặt đất" là "khẩu phần ăn của cá Rô – Phi". Toán học rất vĩ đại, Viện nghiên cứu toán học cao cấp mà Giáo sư Ngô Bảo Châu đang là Viện trưởng rất sang trọng. Nhưng các bệnh viện nhi đồng ở nước ta các cháu thiếu nhi đang phải nằm chung 2 – 3 cháu một giường, các bà mẹ phải nằm dưới đất. Khi một em bé bị đau ruột thừa, mẹ em vừa khóc vừa bế em đến bệnh viện, vạn lạy các bác sỹ cứu nhân độ thế, nhưng bệnh viện còn chờ bố em đi bán bò có tiền nộp viện phí thì mới mổ ruột thừa cứu em… thì mọi sự sang trọng phải xem lại! Mọi vật trang trí phải xem lại.
Đọc xong, tôi không hiểu tác giả sẽ ủng hộ cho trí thức “mậu dịch” hay trí thức dân sự, cái cao cấp hay cái lè tè, đúng là một dạng nước đôi đặc thù của văn hóa lúa nước. Quan điểm này của tác giả chắc chắn là sai. Bởi lẽ, ngay từ khi cả thế giới còn nghèo thì nhà thờ, đền thánh , nhà hát và trường học đã xuất hiện. Lúc đó người ta không thể lấy cớ nghèo để mà xa lánh cái cao cấp lý tưởng đi tìm cái thực dụng lè tè. Về điểm này thế giới đã có nhiều bài học rất xác thực, người Hy Lạp vào lúc rất nghèo, thành bang của những ngọn đồi chọc, nhưng mà họ phát vé cho người dân đi xem kịch, triết học phát triển, những buổi nói chuyện về thần thánh và triết học của Socrate được rất nhiều người mến mộ, sau này thì nước Đức, rồi nước Nhật đều là những nước nghèo sản vật nông nghiệp nhưng chính thế mà họ đã vươn lên hàng đầu thế giới do những cống hiến về trí tuệ và sáng chế.
Người Trung Hoa có câu “ vô hữu tiểu nhân bất dưỡng quân tử, vô hữu quân tử bất thành tiểu nhân”. Tiểu nhân không có thì không ai nuôi dưỡng quân tử về dạ dầy được, nhưng nếu không có quân tử nghĩa là kiểu mẫu tinh thần siêu hình học thì không thể hình thành kiểu mẫu cho tiểu nhân. Nhà văn Pháp Stendhal có nói: “Bọn người ở chế giễu ông chủ trong nhà bếp, nhưng lại bắt chước ông chủ ở ngoài cuộc đời”. Tại sao vậy? Vì bước ra ngoài đời là nơi công chúng phổ quát những người ở không thể không làm theo kiểu mẫu của ông chủ.
Một triết gia viết: Tôi có thể nhận ra một con người thiếu chân hoặc tay, hay mất nhiều chi thể, nhưng tôi không thể nào nhận ra một con người mà không có linh hồn. Con người không có lý tưởng tức không có ánh sáng siêu hình thì không thể thành người. Hòn gạch ở tòa lâu đài khác hòn gạch nằm ngoài đống ở chỗ hòn xây dựng thì đã nằm trong mô hình kiến thiết của bản vẽ, còn hòn nằm ngoài thì không. Lý tưởng thì không ăn được. Nhưng không có cái nhìn lý tưởng, tức những giá trị siêu hinh học – vượt qua vật chất, thì con người không bao giờ thành. Những người đánh đàn biểu diễn kiếm tiền, họ không thể đánh nếu không nghĩ về những cây đàn đỉnh cao chơi đàn mà không kiếm được đông nào. Lý tưởng chữ gốc Latin là “Ideal” khởi từ gốc chữ Ý tưởng tức Idea, hoàn toàn là ý tưởng được kéo dài ra đến tận chân trời. Không có lý tưởng sẽ không có khát vọng, cũng như không có tôn giáo, thậm chí nghệ thuật, và không có cả thách đố và dự phóng cho khoa học. Khoa học thực chứng suy cho cùng chỉ là sự thực nghiệm những ý tưởng đã hình thành trong đầu.
Nước ta cũng như nhiều nước châu Á còn lạc hậu chính vì ý tưởng tiểu nông cách mạng nửa vời. Trong bài kiểm tra trí thông minh người ta phải trả lời Có hoặc Không, yes or no, chứ không thể là Có và Không, hay Yes and No. Đó là bài học của lý trí, và chỉ có lý trí mới biết leo cầu thang tiến bộ mà thôi, còn tình cảm luôn có xu hướng mặt trận lấy lòng các bên, sẽ chẳng bao giờ đạt tới cái gì minh bạch rõ ràng cả. Có một phương ngôn thế này về trí thức: Không thể nào là người trí thức nếu không bao gồm tâm cảm yêu tiến bộ. Không yêu tiến bộ thì học bao nhiêu đi nữa thì vẫn chỉ là ngăn kéo cũ chất sách mốc mà thôi. Hy vọng, trước khi bàn vào người Trí thức chúng ta nên biết đoạn tuyệt thẳng thừng với lối nửa voi nửa chuột. Còn dùng dằng đến bao giờ nữa, nhân loại đã bước sang thế kỷ 21 rồi, chẳng lẽ chúng ta vẫn còn băn khoăn về tri thức và trí thức để vùi quên hành động tri thức của mình. Mấy lời xin trao đổi với t/g Lê Phú Khải và những ai có suy nghĩ giống ông. Cám ơn nhiều! Mùa xuân, chúc tác giả và bạn đọc mạnh khỏe, bình an, vui vẻ!
Mùng hai tết Nhâm Thìn
Đọc xong, tôi không hiểu tác giả sẽ ủng hộ cho trí thức “mậu dịch” hay trí thức dân sự, cái cao cấp hay cái lè tè, đúng là một dạng nước đôi đặc thù của văn hóa lúa nước. Quan điểm này của tác giả chắc chắn là sai. Bởi lẽ, ngay từ khi cả thế giới còn nghèo thì nhà thờ, đền thánh , nhà hát và trường học đã xuất hiện. Lúc đó người ta không thể lấy cớ nghèo để mà xa lánh cái cao cấp lý tưởng đi tìm cái thực dụng lè tè. Về điểm này thế giới đã có nhiều bài học rất xác thực, người Hy Lạp vào lúc rất nghèo, thành bang của những ngọn đồi chọc, nhưng mà họ phát vé cho người dân đi xem kịch, triết học phát triển, những buổi nói chuyện về thần thánh và triết học của Socrate được rất nhiều người mến mộ, sau này thì nước Đức, rồi nước Nhật đều là những nước nghèo sản vật nông nghiệp nhưng chính thế mà họ đã vươn lên hàng đầu thế giới do những cống hiến về trí tuệ và sáng chế.
Người Trung Hoa có câu “ vô hữu tiểu nhân bất dưỡng quân tử, vô hữu quân tử bất thành tiểu nhân”. Tiểu nhân không có thì không ai nuôi dưỡng quân tử về dạ dầy được, nhưng nếu không có quân tử nghĩa là kiểu mẫu tinh thần siêu hình học thì không thể hình thành kiểu mẫu cho tiểu nhân. Nhà văn Pháp Stendhal có nói: “Bọn người ở chế giễu ông chủ trong nhà bếp, nhưng lại bắt chước ông chủ ở ngoài cuộc đời”. Tại sao vậy? Vì bước ra ngoài đời là nơi công chúng phổ quát những người ở không thể không làm theo kiểu mẫu của ông chủ.
Một triết gia viết: Tôi có thể nhận ra một con người thiếu chân hoặc tay, hay mất nhiều chi thể, nhưng tôi không thể nào nhận ra một con người mà không có linh hồn. Con người không có lý tưởng tức không có ánh sáng siêu hình thì không thể thành người. Hòn gạch ở tòa lâu đài khác hòn gạch nằm ngoài đống ở chỗ hòn xây dựng thì đã nằm trong mô hình kiến thiết của bản vẽ, còn hòn nằm ngoài thì không. Lý tưởng thì không ăn được. Nhưng không có cái nhìn lý tưởng, tức những giá trị siêu hinh học – vượt qua vật chất, thì con người không bao giờ thành. Những người đánh đàn biểu diễn kiếm tiền, họ không thể đánh nếu không nghĩ về những cây đàn đỉnh cao chơi đàn mà không kiếm được đông nào. Lý tưởng chữ gốc Latin là “Ideal” khởi từ gốc chữ Ý tưởng tức Idea, hoàn toàn là ý tưởng được kéo dài ra đến tận chân trời. Không có lý tưởng sẽ không có khát vọng, cũng như không có tôn giáo, thậm chí nghệ thuật, và không có cả thách đố và dự phóng cho khoa học. Khoa học thực chứng suy cho cùng chỉ là sự thực nghiệm những ý tưởng đã hình thành trong đầu.
Nước ta cũng như nhiều nước châu Á còn lạc hậu chính vì ý tưởng tiểu nông cách mạng nửa vời. Trong bài kiểm tra trí thông minh người ta phải trả lời Có hoặc Không, yes or no, chứ không thể là Có và Không, hay Yes and No. Đó là bài học của lý trí, và chỉ có lý trí mới biết leo cầu thang tiến bộ mà thôi, còn tình cảm luôn có xu hướng mặt trận lấy lòng các bên, sẽ chẳng bao giờ đạt tới cái gì minh bạch rõ ràng cả. Có một phương ngôn thế này về trí thức: Không thể nào là người trí thức nếu không bao gồm tâm cảm yêu tiến bộ. Không yêu tiến bộ thì học bao nhiêu đi nữa thì vẫn chỉ là ngăn kéo cũ chất sách mốc mà thôi. Hy vọng, trước khi bàn vào người Trí thức chúng ta nên biết đoạn tuyệt thẳng thừng với lối nửa voi nửa chuột. Còn dùng dằng đến bao giờ nữa, nhân loại đã bước sang thế kỷ 21 rồi, chẳng lẽ chúng ta vẫn còn băn khoăn về tri thức và trí thức để vùi quên hành động tri thức của mình. Mấy lời xin trao đổi với t/g Lê Phú Khải và những ai có suy nghĩ giống ông. Cám ơn nhiều! Mùa xuân, chúc tác giả và bạn đọc mạnh khỏe, bình an, vui vẻ!
Mùng hai tết Nhâm Thìn
![]() |
| Gs. Toán học Ngô Bảo Châu . (Ảnh: Tuoitre.vn) |
Nhà Văn Nguyễn Quang Vinh - Mình gọi Châu giáo sư ( Nhà toán học Ngô Bảo Châu) chứ không gọi là Giáo sư Châu là có ý có tứ cả chứ không gọi lộn.
Châu trả lời Tuổi trẻ nói về trí thức. Trả lời xong thì trên mạng nóng rực vì bất bình.
Mình văn hóa lùn, không dám coi mình là trí thức, nhưng mình cũng nhắc khẽ Châu, khéo Châu lại nhầm mình là trí thức, dù Châu nhận được cái giải lớn về một đề tài nghiên cứu lớn nhưng không biết để làm gì vào thời buổi này.
Năng khiếu của Châu rất quý.
Đóng góp của Châu thì nó nằm ở đâu, ở mớ lý thuyết đâu đâu, còn nước nhà thì hùa theo ăn theo vài bữa vì danh thôi, chẳng có gì.
So với Châu, mình chỉ là thằng nhà văn quèn, cũng nhận được nhiều giải thưởng quèn trong nước, cũng nhận được đồng tiền còm nhờ chữ nghĩa, chẳng dám đứng trên bục cao răn dạy ai, chẳng dám nghĩ tới cái lúc được vinh danh vinh diếc, suốt ngày chỉ cắm mặt vào viết, thế thôi, trí thức cái gì loại nhà văn như bọn mình Châu nhỉ? Cho nên Châu cũng đừng lo ( theo quan niệm của em) là tụi mình đang lao tới dành nhau cái chức vị trí thức. Chỉ là người cầm bút thôi, bằng sức lực và mồ hôi của mình thôi.
Làm cái gì trên đời này, nhà chính khách, nhà giáo, nghệ sĩ, nhà văn, hay giáo sư như Châu, hay một chị quét rác, điều quan trọng bậc nhất là trách nhiệm sống của mình với cộng đồng, ý thức cộng đồng Châu ạ. Trí thức trí thiếc bàn làm cái gì nếu anh ta ( coi như trí thức ấy) bàng quan với cuộc sống nhân dân, thấy người dân khổ mà không xót, thấy bất công trắng trợn mà không màng lên tiếng, thấy kẻ cường hào mới đang chà đạp nhân dân, chà đạp pháp luật mà làm ngơ, trí thức ấy là trí ngủ, là trí giả, cũng chỉ là thứ danh hão, đôi lúc vỗ ngực ta đang nghiên cứu nghiên kiếc, thí nghiệm thí nghiếc, rồi bỏ trốn trách nhiệm với nhân dân, trí thức ấy không chừng, vì đơn đặt hàng lớn, vì tiền lớn, lại vẽ vẽ, tính tính, toán toán, khéo chế tạo ra cả bom hạt nhân nguyên tử giết người hàng loạt như đã từng xảy ra.
Người dân cần đến trí thức là cần đến sự hướng dẫn đường đi cho họ, cần đến lẽ phải, cần đến sự vun đắp tâm hồn, vun đắp nhân cách, vun đắp dũng khí đấu tranh vì lẽ phải cho họ. Họ nuôi mình, cho mình sống, cho mình có chữ có nghĩa, có suy có nghĩ, có trí có tuệ thì phải vì họ, hy sinh vì họ.
Châu được nhà nước tặng cả căn hộ gần 20 tỷ để ở tạm mỗi khi về nước, tốt quá.
Châu được anh Tuyển tặng cả biệt thự 3 triệu đô để Châu và đồng nghiệp thỉnh thoảng ghé qua, nghỉ dưỡng sau những tháng ngày nghiên cứu. Quá tốt.
Châu được nhà nước giao cho Viện toán với hơn 600 tỷ đồng để muốn làm gì cũng được, không phát minh ra cái gì cũng được, mời các viện sĩ toán thế giới qua qua lại lại, để đạt cho được chỉ tiêu Việt Nam xếp thứ 40 về phát triển toán học của Thế giới hay cái gì đó, thôi kệ, nhà nước cho Châu thì em cứ dùng.
Nhưng Châu đừng vội nghĩ Châu là trí thức nhé.
Châu đừng vội nhầm mình là trí thức nhé.
Châu chỉ là một người làm nghề toán. Làm nghề toán và một nhà trí thức đôi khi cả đời Châu vươn tới cũng không tới.
Giáo sư Châu và Châu giáo sư khác nhau đấy.
Châu nói trí thức là những người lao động bằng trí óc.
Châu nghe chị Thương, chị Hiền ( vợ anh Đoàn Văn Vươn, anh Đoàn Văn Quý) ở Tiên Lãng nói này: Họ đang chịu nhiều thiệt thòi, nhiều cái mất để mang lại cái được cho nhiều người. Được gì thế? Được một sự cải cách to lớn về Luật đất đai sau vụ Tiên Lãng. Được vạch mặt chân dung bọn cường hào mới. Được cái ý thức đấu tranh không khoan nhượng với sự bỉ ổi của các quan chức hư hỏng. Nói được như thế, chị Thương, chị Hiền là trí thức đấy Châu ạ dù họ nông dân xịn.
Anh trai cả của mình cũng là giáo sư Châu ạ, thế hệ thầy của bố mẹ em, mắt mù, bị bệnh tim, rồi tiều đường, không có tiền chữa chạy, vẫn gọi điện và khóc, xin góp nửa tháng lương giúp gia đình anh Đoàn Văn Vươn.
Cứ làm nghề toán cho tốt Châu ạ, đừng dạy dỗ ai, đừng giao lưu, đừng vội tuyên bố, cũng đừng nhầm mình là trí thức, bởi vì không khéo, Châu lại biến mình thành con cừu đấy.
Lại nhớ mạ mình hồi còn sống hay dạy bọn mình: đừng ăn xôi chùa ngọng miệng.
Có thể Châu vẫn chưa hết ngây ngất vì cái giải thưởng toán mà người ta đồn là ngang giải Nobel, còn mình, mình hạnh phúc là một nhà văn bé nhỏ với tước hiệu tự phong: Trưởng thôn Khoai Lang. Thế thôi nhỉ.
















