![]() |
| (Ảnh: Go.vn) |
(VOV) - Thời cai trị của Pháp, các quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa có bị mất đi?
Danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa và Trường Sa được xác định rõ ràng ít nhất từ thế kỷ VXII. Tuy nhiên, trong thời kỳ Việt Nam là thuộc địa của Pháp thì có một vấn đề được đặt ra là: Dưới thời cai trị của Pháp, các quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa có bị mất đi, cho phép nảy sinh một danh nghĩa có lợi cho một quốc gia khác, chẳng hạn như Trung Quốc?
Chúng ta cùng tìm hiểu vấn đề này qua việc phân tích chính sách của Trung Quốc và thái độ của nước Pháp trong thời kỳ này.
Từ năm 1884 đến năm 1909, không có bằng chứng nào chứng tỏ sự quan tâm của Trung Quốc đối với các quần đảo Hoàng Sa. Chỉ có một sự kiện duy nhất được các nhà biên niên sử ghi lại. Nội dung này khẳng định rõ ràng, Trung Quốc đồng ý với sự chiếm hữu của nước khác.
![]() |
| Ông Hoàng Việt, giảng viên Trường Đại học Luật TP.HC(Ảnh: VOA) |
Ông Hoàng Việt, giảng viên Trường Đại học Luật TP.HCM thuật lại câu chuyện do P.A Lapicque ghi lại như sau: “Năm 1895, tàu chở đồng của phương Tây (tàu Bellona của Đức) đi ngang qua vùng biển Hoàng Sa bị mắc cạn ở đó, rồi bị chìm. Ngư dân Trung Quốc ùa ra cướp về. Tàu này mua bảo hiểm của một hãng tại Anh quốc. Hãng bảo hiểm đó đã đòi tiền bồi thường của chính quyền Quảng Đông vì không đảm bảo được an ninh hàng hải. Chính quyền Quảng Đông (Trung Quốc) đã trả lời rằng, lãnh hải đó không phải của họ và họ không chịu trách nhiệm.”
Nội dung câu chuyện này còn được lưu lại trong một văn thư của Phủ Toàn quyền Đông Dương (Vụ Giám đốc các công việc chính trị và bản xứ) ngày 6.5.1921.
Rõ ràng, các nhà chức trách địa phương đã phủ nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đào này. Ý kiến của nhà chức trách địa phương, người nắm rõ nhất tình hình thực tế, là không có sự sáp nhập hành chính, bằng chứng của việc không quản lý.
Tuy nhiên, kể năm 1909, Trung Quốc bắt đầu thay đổi thái độ của mình đối với quần đảo Hoàng Sa. Trong năm này, Trung Quốc nói rằng đã phái một đoàn đi “thị sát” các đảo Hoàng Sa. Theo đó, đô đốc Quảng Đông Lý Chuẩn theo lệnh của Tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Nhân Tuấn đưa 170 lính thuỷ đổ bộ chớp nhoáng lên đó, gọi đó là thực hiện “quyền cai quản” của mình. Cần khẳng định ngay rằng, đây là hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam vì lúc đó quần đảo này đã thuộc Việt Nam, tuyệt đối không thể coi là việc thực hiện "chủ quyền" của Trung Quốc.
Ngày 30 tháng 3 năm 1921, Thống đốc dân sự Quảng Đông quyết định sáp nhập các đảo Hoàng Sa vào Nhai huyện (Hải Nam). Về sự kiện này, công sứ Pháp ở Trung Quốc không đưa ra lời phản đối chính thức nào vì cho rằng, hành động này được đưa ra bởi một chính phủ không được cả chính phủ trung ương Trung Quốc lẫn các nước khác thừa nhận,vv…
![]() |
| Bà Monique Chemillier Gendrea.(Ảnh: VOA) |
Theo Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu, chính các hành vi của Trung Quốc trong năm 1895 (từ chối trách nhiệm về các vụ đắm tàu ở Hoàng Sa vì các đảo đó không thuộc Trung Quốc), rồi đến năm 1909 (đổ bộ chớp nhoáng lên một vài đảo trong quần đảo Hoàng Sa, qua đó khẳng định chủ quyền của Trung Quốc) đã làm suy yếu tất cả những lời khẳng định khác về việc chiếm đóng của nước này từ hàng thế kỷ xa xưa. Những hành vi trong năm 1909, dù có bổ sung thêm việc sáp nhập về hành chính nhưng không đủ cấu thành một sự chiếm hữu lâu dài, thật sự, hòa bình và liên tục. Các hành vi này được thực hiện bởi một chính phủ không được ghi nhận trong sự liên tục của nhà nước Trung Quốc. Như vậy, Trung Quốc không hội đủ các điều kiện để tạo ra một tình thế cho phép họ phủ nhận các quyền đã có từ trước của Việt Nam.
Tháng 3.1932, người Trung Quốc cho đấu thầu công khai ở Quảng Châu các quyền khai thác phân chim ở quần đảo Hoàng Sa. Pháp đã gửi công hàm cho Trung Quốc phản đối và khẳng định các quyền của mình và trong trường hợp Trung Quốc không thừa nhận quyền đó, đề nghị đưa ra trọng tài.
Theo Quyết định Postdam tháng 8.1945 giữa Liên Xô, Anh và Mỹ, Trung Hoa Dân quốc được giao tiếp nhận việc giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16o trở lên. Vì lý do này, Tưởng Giới Thạch đã chiếm đóng Hoàng Sa vào năm 1946. Và cũng làm như vậy với quần đảo Trường Sa mặc dù không được đồng minh ủy quyền. Dựa vào sự có mặt này, vào năm 1947, Bộ Nội vụ của Chính phủ Trung Quốc thời kỳ đó đã phát hành một tập bàn đồ trong đó thể hiện Trung Quốc bao gồm cả các quần đảo này. Cần khẳng định rằng, điều này không có nghĩa là nước này đã có các quyền “lịch sử” trên các đảo này, bởi vì sự bao gộp này hết sức muộn mằn và gắn liền với những hoàn cảnh đặc biệt.
Từ năm 1950, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa lặp lại các yêu sách của Trung Hoa Dân quốc nhưng không chỉ đối với Hoàng Sa mà cả Trường Sa.
Tuy nhiên, cũng trong giai đoạn này (1884-1956), chính phủ Pháp ở Đông Dương đã liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Hiệp ước Giáp Thân (1884) là Hiệp ước được Triều đình Huế kí với nước Pháp công nhận sự bảo hộ của Pháp. Kể từ đây, Pháp thay mặt Việt Nam trong những quan hệ ngoại giao với nước ngoài bên cạnh việc đảm bảo chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, trong đó có việc tiếp tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu: “Tôi đã tìm thấy trong thư từ ngoại giao những yếu tố cho thấy người Pháp dần dần quan tâm tới các quần đảo này và tự đặt mình vào bối cảnh quốc tế để đòi hỏi chủ quyền.”
Đúng như vậy! Bộ Thuộc địa và Phủ Toàn quyền Đông Dương đề cập đến chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa ngay từ năm 1898. Công văn của Vụ Châu Á-Châu Đại dương của Bộ Ngoại giao Pháp có đoạn viết: “…nhằm ngăn cản một cường quốc khác đứng trên các đảo đó (Hoàng Sa), có lẽ có lợi ích là nên xây dựng một hải đăng trong quần đảo này để khẳng định chủ quyền của chúng ta…”
Từ năm 1920, Hải quân Pháp đã có mặt đều đặn trên các quần đảo để ngăn chặn buôn lậu, một hình thức cảnh sát biển đã hoạt động ở đây.
Khi phải trả lời Công ty phốt phát Bắc Kỳ về việc muốn khai thác quần đảo Hoàng Sa, ngày 17 tháng 12 năm 1928, Toàn quyền Đông Dương viết cho Bộ trưởng thuộc địa và cảnh báo “chứng hoang tưởng tự cao, tự đại cứ tăng lên mãi của chủ nghĩa quốc gia Trung Quốc” và đã tuyên bố rõ ràng: “vậy đã đến lúc chúng ta phải tiến lên trước và khẳng định các quyền dường như đã được công nhận bởi cả các tư liệu lịch sử lẫn các thực tế địa lý”.
Tiến sĩ Sử học Nguyễn Nhã cho biết, để có chỗ dựa vững chắc cho lập trường này của Pháp, ông Toàn quyền đã yêu cầu Khâm sứ Trung Kỳ cung cấp tất cả các tài liệu của hồ sơ: “Chính quyền Pháp đã yêu cầu Khâm sứ ở Trung Kỳ tìm hiểu rõ vấn đề chủ quyền của An Nam ở Hoàng Sa. Qua các tài liệu thì thấy rõ những hành xử chủ quyền từ thời Chúa Nguyễn và nhà Nguyễn. Ông Thân Trọng Huề, nguyên Thượng thư Bộ Binh vào ngày 3.3.1925 cũng đã tuyên bố chủ quyền của An Nam đối với Hoàng Sa là không có gì phải tranh cãi.”
Tháng 11 năm 1929, Thượng nghị sĩ De Monzei viết thư cho Bộ trưởng Thuộc địa rằng: “các quyền của nước An Nam, và do đó của nước Pháp, đối với quần đảo Hoàng Sa dường như không thể tranh cãi từ thế kỷ XVII và các đảo này là một địa điểm tốt nhất cho việc đặt một trạm vô tuyến điện để báo trước các trận bão.”
Trong một văn thư của Quai d’Orsay, Bộ Ngoại giao Pháp do Knobel ký ngày 19/6/1930, một câu hỏi về pháp lý đã được đặt ra: Chủ quyền rõ ràng của An Nam với quần đảo Hoàng Sa liệu có bị mất đi vì không thực thi không? Tác giả đã kết luận là không vì các đảo Hoàng Sa không bị bỏ và do đó không trở thành vô chủ.
Bức thư của Toàn quyền Pasquier, ngày 18/10/1930 khẳng định lại Pháp có chủ quyền đối với quần đảo này. Bức thư chỉ rõ, Pháp có đầy đủ hồ sơ chứng tỏ rằng các quyền không thể tranh cãi của Việt Nam. Trong khi đó, Trung Quốc chỉ thể hiện sự quan tâm của họ từ năm 1909. Cần nói thêm rằng, lập trường của Pháp khi đó phải được hiểu như là “sự thực hiện các quyền chủ quyền đã tồn tại từ trước”. Nói cách khác, người Pháp nhận lấy pháp quyền và trách nhiệm giao nhượng cho họ từ người Việt Nam bị bảo hộ, tiếp tục bảo đảm quyền hạn pháp lý thay mặt cho người Việt Nam.
Ngày 4/2/1932, một công hàm được gửi cho Công sứ quán Trung Quốc nhằm khẳng định các quyền của nước Pháp, trong trường hợp không chấp nhận thì đưa ra trọng tài.
Vào cuối thời kỳ này, Pháp đã khẳng định rõ các quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa bằng các Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 15/6/1938 quy định việc thành lập một đại lý hành chính ở quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên và Nghị định ký ngày 5.5.1939 thành lập hai đại lý hành chính “Cụm Lưỡi Liềm và các đảo phụ cận” và “Cụm An Vĩnh và các đảo phụ cận”.
Những nội dung vừa phân tích chỉ liên quan đến quần đảo Hoàng Sa.
Trường hợp quần đảo Trường Sa đơn giản hơn vì không có bất cứ một yêu sách nào của Trung Quốc trong suốt thời kỳ thuộc địa.
Ngày 23 tháng 9 năm 1930, Pháp thông báo cho các nước thứ ba biết việc nước này chiếm hữu quần đảo Trường Sa. Tháng 4 năm 1933, việc chiếm hữu 6 đảo nhỏ đã được tổ chức trang trọng bằng việc “Công bố quyền thủ đắc do chiếm cứ các đảo do các đơn vị hải quân Pháp thực hiện”. Đáp lại sự khẳng định chủ quyền đó, Trung Quốc im lặng. Cùng năm này, Thống đốc Nam Kỳ là M. Krautheimer đã ký một Nghị định sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa,vv…
Theo TS. Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới của Chính phủ, những hành động vừa nêu đã chứng tỏ chính phủ Pháp đã có trách nhiệm trong việc chiếm hữu, khai thác liên tục và có hiệu quả trên vùng biển Đông thuộc chủ quyền của Việt Nam: “Khi đô hộ Việt Nam, Pháp đã đại diện cho Nhà nước Việt Nam về mặt đối ngoại, đã có những hành động, hành vi tiếp tục thực hiện chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo và họ đã để lại cho chúng ta những nghị định, quyết định trong việc thành lập các đơn vị hành chính, tổ chức các đơn vị đồn trú, khí tượng, các đài quan trắc, xây dựng các công trình trên đó,vv…”
Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu: “Đối với quần đảo Hoàng Sa, Pháp chỉ rõ là thừa hưởng giấy chứng thực chủ quyền của các Hoàng đế An Nam. Còn với Trường Sa, Pháp tuyên bố đã phát hiện ra và nhận chủ quyền quần đảo này. Người Trung Quốc chỉ bắt đầu đòi chủ quyền vào đầu thế kỷ XX và đòi hỏi của họ không dựa trên các bằng chứng lịch sử và pháp lý rõ ràng.”
Tính đến thời điểm kết thúc giai đoạn này (1939), Pháp đã thay mặt Việt Nam tiếp tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Quốc gia này chưa từng tuyên bố bỏ các đảo, để có thể tạo ra một quyền cho bên thứ ba.
Điều này có nghĩa là chủ quyền đã có từ xa xưa của Việt Nam vẫn luôn được duy trì.
Sau này, mặc dù trong tình hình nước Pháp bị lún sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương và cuộc chiến tranh thế giới thứ hai nhưng Pháp vẫn duy trì cả sự có mặt lẫn yêu sách của mình cho đến khi rút khỏi Việt Nam, để lại cho Việt Nam nhiệm vụ thay thế, góp phần duy trì danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở cuối thời kỳ thuộc địa (sau chiến tranh thế giới thứ hai).
Tháng 3.1932, người Trung Quốc cho đấu thầu công khai ở Quảng Châu các quyền khai thác phân chim ở quần đảo Hoàng Sa. Pháp đã gửi công hàm cho Trung Quốc phản đối và khẳng định các quyền của mình và trong trường hợp Trung Quốc không thừa nhận quyền đó, đề nghị đưa ra trọng tài.
Theo Quyết định Postdam tháng 8.1945 giữa Liên Xô, Anh và Mỹ, Trung Hoa Dân quốc được giao tiếp nhận việc giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16o trở lên. Vì lý do này, Tưởng Giới Thạch đã chiếm đóng Hoàng Sa vào năm 1946. Và cũng làm như vậy với quần đảo Trường Sa mặc dù không được đồng minh ủy quyền. Dựa vào sự có mặt này, vào năm 1947, Bộ Nội vụ của Chính phủ Trung Quốc thời kỳ đó đã phát hành một tập bàn đồ trong đó thể hiện Trung Quốc bao gồm cả các quần đảo này. Cần khẳng định rằng, điều này không có nghĩa là nước này đã có các quyền “lịch sử” trên các đảo này, bởi vì sự bao gộp này hết sức muộn mằn và gắn liền với những hoàn cảnh đặc biệt.
Từ năm 1950, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa lặp lại các yêu sách của Trung Hoa Dân quốc nhưng không chỉ đối với Hoàng Sa mà cả Trường Sa.
Tuy nhiên, cũng trong giai đoạn này (1884-1956), chính phủ Pháp ở Đông Dương đã liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Hiệp ước Giáp Thân (1884) là Hiệp ước được Triều đình Huế kí với nước Pháp công nhận sự bảo hộ của Pháp. Kể từ đây, Pháp thay mặt Việt Nam trong những quan hệ ngoại giao với nước ngoài bên cạnh việc đảm bảo chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, trong đó có việc tiếp tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu: “Tôi đã tìm thấy trong thư từ ngoại giao những yếu tố cho thấy người Pháp dần dần quan tâm tới các quần đảo này và tự đặt mình vào bối cảnh quốc tế để đòi hỏi chủ quyền.”
Đúng như vậy! Bộ Thuộc địa và Phủ Toàn quyền Đông Dương đề cập đến chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa ngay từ năm 1898. Công văn của Vụ Châu Á-Châu Đại dương của Bộ Ngoại giao Pháp có đoạn viết: “…nhằm ngăn cản một cường quốc khác đứng trên các đảo đó (Hoàng Sa), có lẽ có lợi ích là nên xây dựng một hải đăng trong quần đảo này để khẳng định chủ quyền của chúng ta…”
Từ năm 1920, Hải quân Pháp đã có mặt đều đặn trên các quần đảo để ngăn chặn buôn lậu, một hình thức cảnh sát biển đã hoạt động ở đây.
Khi phải trả lời Công ty phốt phát Bắc Kỳ về việc muốn khai thác quần đảo Hoàng Sa, ngày 17 tháng 12 năm 1928, Toàn quyền Đông Dương viết cho Bộ trưởng thuộc địa và cảnh báo “chứng hoang tưởng tự cao, tự đại cứ tăng lên mãi của chủ nghĩa quốc gia Trung Quốc” và đã tuyên bố rõ ràng: “vậy đã đến lúc chúng ta phải tiến lên trước và khẳng định các quyền dường như đã được công nhận bởi cả các tư liệu lịch sử lẫn các thực tế địa lý”.
Tiến sĩ Sử học Nguyễn Nhã cho biết, để có chỗ dựa vững chắc cho lập trường này của Pháp, ông Toàn quyền đã yêu cầu Khâm sứ Trung Kỳ cung cấp tất cả các tài liệu của hồ sơ: “Chính quyền Pháp đã yêu cầu Khâm sứ ở Trung Kỳ tìm hiểu rõ vấn đề chủ quyền của An Nam ở Hoàng Sa. Qua các tài liệu thì thấy rõ những hành xử chủ quyền từ thời Chúa Nguyễn và nhà Nguyễn. Ông Thân Trọng Huề, nguyên Thượng thư Bộ Binh vào ngày 3.3.1925 cũng đã tuyên bố chủ quyền của An Nam đối với Hoàng Sa là không có gì phải tranh cãi.”
Tháng 11 năm 1929, Thượng nghị sĩ De Monzei viết thư cho Bộ trưởng Thuộc địa rằng: “các quyền của nước An Nam, và do đó của nước Pháp, đối với quần đảo Hoàng Sa dường như không thể tranh cãi từ thế kỷ XVII và các đảo này là một địa điểm tốt nhất cho việc đặt một trạm vô tuyến điện để báo trước các trận bão.”
Trong một văn thư của Quai d’Orsay, Bộ Ngoại giao Pháp do Knobel ký ngày 19/6/1930, một câu hỏi về pháp lý đã được đặt ra: Chủ quyền rõ ràng của An Nam với quần đảo Hoàng Sa liệu có bị mất đi vì không thực thi không? Tác giả đã kết luận là không vì các đảo Hoàng Sa không bị bỏ và do đó không trở thành vô chủ.
Bức thư của Toàn quyền Pasquier, ngày 18/10/1930 khẳng định lại Pháp có chủ quyền đối với quần đảo này. Bức thư chỉ rõ, Pháp có đầy đủ hồ sơ chứng tỏ rằng các quyền không thể tranh cãi của Việt Nam. Trong khi đó, Trung Quốc chỉ thể hiện sự quan tâm của họ từ năm 1909. Cần nói thêm rằng, lập trường của Pháp khi đó phải được hiểu như là “sự thực hiện các quyền chủ quyền đã tồn tại từ trước”. Nói cách khác, người Pháp nhận lấy pháp quyền và trách nhiệm giao nhượng cho họ từ người Việt Nam bị bảo hộ, tiếp tục bảo đảm quyền hạn pháp lý thay mặt cho người Việt Nam.
Ngày 4/2/1932, một công hàm được gửi cho Công sứ quán Trung Quốc nhằm khẳng định các quyền của nước Pháp, trong trường hợp không chấp nhận thì đưa ra trọng tài.
Vào cuối thời kỳ này, Pháp đã khẳng định rõ các quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa bằng các Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 15/6/1938 quy định việc thành lập một đại lý hành chính ở quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên và Nghị định ký ngày 5.5.1939 thành lập hai đại lý hành chính “Cụm Lưỡi Liềm và các đảo phụ cận” và “Cụm An Vĩnh và các đảo phụ cận”.
Những nội dung vừa phân tích chỉ liên quan đến quần đảo Hoàng Sa.
Trường hợp quần đảo Trường Sa đơn giản hơn vì không có bất cứ một yêu sách nào của Trung Quốc trong suốt thời kỳ thuộc địa.
Ngày 23 tháng 9 năm 1930, Pháp thông báo cho các nước thứ ba biết việc nước này chiếm hữu quần đảo Trường Sa. Tháng 4 năm 1933, việc chiếm hữu 6 đảo nhỏ đã được tổ chức trang trọng bằng việc “Công bố quyền thủ đắc do chiếm cứ các đảo do các đơn vị hải quân Pháp thực hiện”. Đáp lại sự khẳng định chủ quyền đó, Trung Quốc im lặng. Cùng năm này, Thống đốc Nam Kỳ là M. Krautheimer đã ký một Nghị định sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa,vv…
Theo TS. Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới của Chính phủ, những hành động vừa nêu đã chứng tỏ chính phủ Pháp đã có trách nhiệm trong việc chiếm hữu, khai thác liên tục và có hiệu quả trên vùng biển Đông thuộc chủ quyền của Việt Nam: “Khi đô hộ Việt Nam, Pháp đã đại diện cho Nhà nước Việt Nam về mặt đối ngoại, đã có những hành động, hành vi tiếp tục thực hiện chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo và họ đã để lại cho chúng ta những nghị định, quyết định trong việc thành lập các đơn vị hành chính, tổ chức các đơn vị đồn trú, khí tượng, các đài quan trắc, xây dựng các công trình trên đó,vv…”
Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu: “Đối với quần đảo Hoàng Sa, Pháp chỉ rõ là thừa hưởng giấy chứng thực chủ quyền của các Hoàng đế An Nam. Còn với Trường Sa, Pháp tuyên bố đã phát hiện ra và nhận chủ quyền quần đảo này. Người Trung Quốc chỉ bắt đầu đòi chủ quyền vào đầu thế kỷ XX và đòi hỏi của họ không dựa trên các bằng chứng lịch sử và pháp lý rõ ràng.”
Tính đến thời điểm kết thúc giai đoạn này (1939), Pháp đã thay mặt Việt Nam tiếp tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Quốc gia này chưa từng tuyên bố bỏ các đảo, để có thể tạo ra một quyền cho bên thứ ba.
Điều này có nghĩa là chủ quyền đã có từ xa xưa của Việt Nam vẫn luôn được duy trì.
Sau này, mặc dù trong tình hình nước Pháp bị lún sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương và cuộc chiến tranh thế giới thứ hai nhưng Pháp vẫn duy trì cả sự có mặt lẫn yêu sách của mình cho đến khi rút khỏi Việt Nam, để lại cho Việt Nam nhiệm vụ thay thế, góp phần duy trì danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở cuối thời kỳ thuộc địa (sau chiến tranh thế giới thứ hai).
![]() |
| Tiến sĩ Sử học Nguyễn Nhã(Ảnh: VOA) |
Tiến sĩ Sử học Nguyễn Nhã: “Pháp nhân danh An Nam với quyền là Nhà nước bảo hộ thì đã có chủ trương rất rõ là không từ bỏ chủ quyền của An Nam ở hai quần đảo. Người Pháp đã tích cực thực hiện, thực thi chủ quyền một cách rất cụ thể.”
Trong một bức điện tháng 8.1946, Cao ủy Pháp tại Sài Gòn đã thông báo cho Tùy viên hải quân biết rằng, nước Pháp kiểm soát các đảo Hoàng Sa và bất kỳ tàu thuyền nào dự định ghé vào đấy phải xin phép Cao ủy.
Năm 1947, chủ quyền quần đảo Hoàng Sa là nội dung chính được bàn thảo trong các cuộc thương lượng giữa Pháp với Trung Hoa Dân quốc. Các đối thoại này không có kết quả gì đảng kể nhưng chúng là dịp để nước Pháp khẳng định lại các quyền của mình và đề nghị đưa vụ việc ra trước Trọng tài,vv…
Đáng chú ý, trong các tuyên bố hay các thỏa thuận đa phương, chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chưa bao giờ được xác định là của Trung Quốc. Nói cách khác, cộng đồng quốc tế chưa bao giờ công nhận hai quần đảo này thuộc về Trung Quốc.
Ngay trước khi kết thúc chiến tranh, qua Tuyên bố Cairo năm 1943, nguyên thủ của các chính phủ Mỹ, Trung Quốc và Anh “thông báo rằng, họ trù định giành lại của Nhật Bản tất cả các đảo ở Thái Bình Dương đã bị nước này cưỡng đoạt hay chiếm đóng từ khi khởi sự Chiến tranh thế giới thứ nhất và trả lại Trung Hoa dân quốc tất cả các lãnh thổ đã bị Nhật cướp của Trung Hoa, như là Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ và trục xuất Nhật Bản khỏi tất cả các lãnh thổ khác mà Nhật đã chiếm được bằng vũ lực.”
Tất nhiên, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc các lãnh thổ khác, không thuộc các lãnh thổ của Trung Quốc bị “cướp đoạt”.
Vì Trung Quốc là một bên tham gia bản tuyên cáo này nên bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu cho rằng, việc không nói tới các quần đảo trong phần này của Tuyên cáo Cairo năm 1943 thật đặc biệt. Nó không phải là kết quả của một sự tình cờ. Không có một bảo lưu cũng như một tuyên bố riêng rẽ nào của Trung Quốc về vấn đề lãnh thổ này. Trung Quốc đã buộc phải im lặng vì họ biết rằng, không thể bảo vệ tham vọng không chắc chắn trước các quốc gia khác, trong đó có Pháp, quốc gia không bao giờ công nhận cho Trung Quốc các quyền đối với các đảo Hoàng Sa và Trường Sa và trong nhiều trường hợp đã đề nghị đưa tranh chấp này ra trước tòa án quốc tế.
Thêm nữa, năm 1951, Mỹ và Anh đứng ra triệu tập Hội nghị San Francisco. Năm mươi mốt nước được mời. Hòa ước được ký vào ngày 8/9/1951. Theo các khoản của điều 2 của Hòa ước, Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và yêu sách đối với một số lãnh thổ, trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Có một sự kiện đáng chú ý liên quan đến hai quần đảo này là, theo yêu cầu của ông Gromyko (đại diện của Liên Xô), trong phiên họp toàn thể trong ngày 5/9/1951, Nhật Bản phải thừa nhận chủ quyền của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đối với một loạt lãnh thổ, trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng đề xuất này đã bị 46 nước trong số 51 nước có mặt ngày hôm đó bác bỏ.
Ông Đinh Kim Phúc, giảng viên khoa Đông Nam Á, Đại học Mở TP.HCM còn cho biết: “Chính Thủ tướng của Chính phủ Bảo Đại Trần Văn Hữu lúc bấy giờ cũng đã trịnh trọng tuyên bố trước Hội nghị ở San Francisco rằng, để xóa tan những nghi ngờ, những mầm mống xung đột về sau thì Việt Nam tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam như nó đã vốn có từ trước. Lời tuyên bố này của Thủ tướng không bị bất cứ phái đoàn nào tham dự hội nghị phản đối. Lời tuyên bố đó đã được ghi vào biên bản của hội nghị. Đây là những cơ sở luật pháp rất quan trọng mà Trung Quốc không thể phủ nhận.”
Tuyên bố này không gặp sự chống đối hoặc bảo lưu nào của đại diện 51 quốc gia tham dự Hội nghị.
Đặc biệt, ngày 28/4/1952, khi đến lượt mình ký một hòa ước với Nhật, Trung Hoa Dân quốc đã ghi nhận việc từ bỏ mọi quyền của Nhật đối với các đảo nhưng không đưa vào Hiệp ước này bất kỳ yêu sách nào đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nếu như khung cảnh của San Francisco ít thuận tiện để yêu sách của họ đạt được kết quả thì một cuộc đàm phán song phương là rất thuận lợi. Thế nhưng văn bản chỉ đề cập tới sự từ bỏ của Nhật mà không đưa ra một điều gì, sự công nhận nào từ phía Nhật rằng các đảo này thuộc Trung Quốc.
Về phần mình, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, qua phát ngôn của Bộ trưởng Ngoại giao Chu Ân Lai, ngày 15/8/1951 rằng, “các đảo Tây Sa và các đảo Nam Sa bao giờ cũng là lãnh thổ Trung Quốc”. Tuy nhiên, cần phải khẳng định ngay rằng, yêu sách này không phải là sự khẳng định một danh nghĩa lặp lại của thời kỳ trước cũng không phải như một quyền được rút ra từ việc quản lý thực sự.
Việc không khẳng định bất kỳ yêu sách nào với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong dịp có bản Tuyên bố Cairo và việc thừa nhận song phương sự từ bỏ của Nhật Bản mà không đưa ra yêu sách của chính mình cho phép kết luận là, Trung Hoa Dân quốc, nước bảo đảm sự liên tục của Chính phủ Trung Quốc duy nhất trước đó, đã từ bỏ các quyền của mình đối với các hòn đảo tranh chấp.
Nhưng liệu người ta có thể nói rằng, Trung Hoa Dân quốc đã từ bỏ các quyền của mình để Cộng hòa nhân dân Trung Hoa hưởng? Điều này là không thể có trong bối cảnh tuyệt giao giữa hai nhà nước.
Trong thời kỳ này, các đại diện của nước Việt Nam không thể phát biểu với tư cách như một quốc gia. Tuy nhiên, mỗi khi phát biểu, dù vào năm 1925 (nguyên Binh bộ Thượng thư của nhà vua), hay vào năm 1949 (Đổng lý Văn phòng của Bảo Đại) hoặc vào năm 1951 (tại San Francisco), nội dung là giống nhau: Các quần đảo đã thuộc Việt Nam từ lâu đời. Các quần đảo phải tiếp tục là của Việt Nam.
Ý chí đó kết hợp với việc Pháp liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã góp phần duy trì danh nghĩa chủ quyền rõ ràng của Việt Nam. Vì vậy, việc còn lại là xem xét số phận của các quần đảo này ở thời kỳ sau giai đoạn thuộc địa.
Lê Phúc-Lê Bình-Thùy Vân-Thu Lan
Trong một bức điện tháng 8.1946, Cao ủy Pháp tại Sài Gòn đã thông báo cho Tùy viên hải quân biết rằng, nước Pháp kiểm soát các đảo Hoàng Sa và bất kỳ tàu thuyền nào dự định ghé vào đấy phải xin phép Cao ủy.
Năm 1947, chủ quyền quần đảo Hoàng Sa là nội dung chính được bàn thảo trong các cuộc thương lượng giữa Pháp với Trung Hoa Dân quốc. Các đối thoại này không có kết quả gì đảng kể nhưng chúng là dịp để nước Pháp khẳng định lại các quyền của mình và đề nghị đưa vụ việc ra trước Trọng tài,vv…
Đáng chú ý, trong các tuyên bố hay các thỏa thuận đa phương, chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chưa bao giờ được xác định là của Trung Quốc. Nói cách khác, cộng đồng quốc tế chưa bao giờ công nhận hai quần đảo này thuộc về Trung Quốc.
Ngay trước khi kết thúc chiến tranh, qua Tuyên bố Cairo năm 1943, nguyên thủ của các chính phủ Mỹ, Trung Quốc và Anh “thông báo rằng, họ trù định giành lại của Nhật Bản tất cả các đảo ở Thái Bình Dương đã bị nước này cưỡng đoạt hay chiếm đóng từ khi khởi sự Chiến tranh thế giới thứ nhất và trả lại Trung Hoa dân quốc tất cả các lãnh thổ đã bị Nhật cướp của Trung Hoa, như là Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ và trục xuất Nhật Bản khỏi tất cả các lãnh thổ khác mà Nhật đã chiếm được bằng vũ lực.”
Tất nhiên, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc các lãnh thổ khác, không thuộc các lãnh thổ của Trung Quốc bị “cướp đoạt”.
Vì Trung Quốc là một bên tham gia bản tuyên cáo này nên bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu cho rằng, việc không nói tới các quần đảo trong phần này của Tuyên cáo Cairo năm 1943 thật đặc biệt. Nó không phải là kết quả của một sự tình cờ. Không có một bảo lưu cũng như một tuyên bố riêng rẽ nào của Trung Quốc về vấn đề lãnh thổ này. Trung Quốc đã buộc phải im lặng vì họ biết rằng, không thể bảo vệ tham vọng không chắc chắn trước các quốc gia khác, trong đó có Pháp, quốc gia không bao giờ công nhận cho Trung Quốc các quyền đối với các đảo Hoàng Sa và Trường Sa và trong nhiều trường hợp đã đề nghị đưa tranh chấp này ra trước tòa án quốc tế.
Thêm nữa, năm 1951, Mỹ và Anh đứng ra triệu tập Hội nghị San Francisco. Năm mươi mốt nước được mời. Hòa ước được ký vào ngày 8/9/1951. Theo các khoản của điều 2 của Hòa ước, Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và yêu sách đối với một số lãnh thổ, trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Có một sự kiện đáng chú ý liên quan đến hai quần đảo này là, theo yêu cầu của ông Gromyko (đại diện của Liên Xô), trong phiên họp toàn thể trong ngày 5/9/1951, Nhật Bản phải thừa nhận chủ quyền của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đối với một loạt lãnh thổ, trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng đề xuất này đã bị 46 nước trong số 51 nước có mặt ngày hôm đó bác bỏ.
Ông Đinh Kim Phúc, giảng viên khoa Đông Nam Á, Đại học Mở TP.HCM còn cho biết: “Chính Thủ tướng của Chính phủ Bảo Đại Trần Văn Hữu lúc bấy giờ cũng đã trịnh trọng tuyên bố trước Hội nghị ở San Francisco rằng, để xóa tan những nghi ngờ, những mầm mống xung đột về sau thì Việt Nam tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam như nó đã vốn có từ trước. Lời tuyên bố này của Thủ tướng không bị bất cứ phái đoàn nào tham dự hội nghị phản đối. Lời tuyên bố đó đã được ghi vào biên bản của hội nghị. Đây là những cơ sở luật pháp rất quan trọng mà Trung Quốc không thể phủ nhận.”
Tuyên bố này không gặp sự chống đối hoặc bảo lưu nào của đại diện 51 quốc gia tham dự Hội nghị.
Đặc biệt, ngày 28/4/1952, khi đến lượt mình ký một hòa ước với Nhật, Trung Hoa Dân quốc đã ghi nhận việc từ bỏ mọi quyền của Nhật đối với các đảo nhưng không đưa vào Hiệp ước này bất kỳ yêu sách nào đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nếu như khung cảnh của San Francisco ít thuận tiện để yêu sách của họ đạt được kết quả thì một cuộc đàm phán song phương là rất thuận lợi. Thế nhưng văn bản chỉ đề cập tới sự từ bỏ của Nhật mà không đưa ra một điều gì, sự công nhận nào từ phía Nhật rằng các đảo này thuộc Trung Quốc.
Về phần mình, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, qua phát ngôn của Bộ trưởng Ngoại giao Chu Ân Lai, ngày 15/8/1951 rằng, “các đảo Tây Sa và các đảo Nam Sa bao giờ cũng là lãnh thổ Trung Quốc”. Tuy nhiên, cần phải khẳng định ngay rằng, yêu sách này không phải là sự khẳng định một danh nghĩa lặp lại của thời kỳ trước cũng không phải như một quyền được rút ra từ việc quản lý thực sự.
Việc không khẳng định bất kỳ yêu sách nào với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong dịp có bản Tuyên bố Cairo và việc thừa nhận song phương sự từ bỏ của Nhật Bản mà không đưa ra yêu sách của chính mình cho phép kết luận là, Trung Hoa Dân quốc, nước bảo đảm sự liên tục của Chính phủ Trung Quốc duy nhất trước đó, đã từ bỏ các quyền của mình đối với các hòn đảo tranh chấp.
Nhưng liệu người ta có thể nói rằng, Trung Hoa Dân quốc đã từ bỏ các quyền của mình để Cộng hòa nhân dân Trung Hoa hưởng? Điều này là không thể có trong bối cảnh tuyệt giao giữa hai nhà nước.
Trong thời kỳ này, các đại diện của nước Việt Nam không thể phát biểu với tư cách như một quốc gia. Tuy nhiên, mỗi khi phát biểu, dù vào năm 1925 (nguyên Binh bộ Thượng thư của nhà vua), hay vào năm 1949 (Đổng lý Văn phòng của Bảo Đại) hoặc vào năm 1951 (tại San Francisco), nội dung là giống nhau: Các quần đảo đã thuộc Việt Nam từ lâu đời. Các quần đảo phải tiếp tục là của Việt Nam.
Ý chí đó kết hợp với việc Pháp liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã góp phần duy trì danh nghĩa chủ quyền rõ ràng của Việt Nam. Vì vậy, việc còn lại là xem xét số phận của các quần đảo này ở thời kỳ sau giai đoạn thuộc địa.
Lê Phúc-Lê Bình-Thùy Vân-Thu Lan
![]() |
| (Ảnh: danlambao) |
Ðọc tạp chí ‘Quan Hệ Quốc Tế Hiện Ðại,’ Trung Quốc, số 6/2011
"Cuộc vận động chính trị của người Việt ở Mỹ trong vấn đề tranh chấp Nam Hải đã mang lại hiệu quả rộng lớn. Ðiều này không những thể hiện trong tuyên bố của bà Hillary rằng Nam Hải liên quan đến “lợi ích quốc gia,” đồng thời yêu cầu thông qua diễn đàn đa phương để giải quyết tranh chấp ở khu vực này mà còn thể hiện trong việc họ đã động viên các nhóm dân tộc khác ở Mỹ tác động lên Quốc Hội Mỹ và các bên tranh chấp Nam Hải...."
*
Người Việt - Bài viết dưới đây do độc giả Việt Tâm chọn, hiệu đính, ghi chú, và gởi đến Người Việt. Trong phần lời dẫn, Việt Tâm giới thiệu: “Mới đây, tập san Các vấn đề quốc tế ở Hà Nội, số ra tháng 10, 2011 cho dịch và đăng lại một bài nghiên cứu khá cặn kẽ của Trung Cộng đăng trên tạp chí Quan hệ quốc tế hiện đại của Trung Quốc, số ra tháng 6, 2011, viết về cộng đồng người Việt trên đất Mỹ và ảnh hưởng của họ đối với chính sách của Mỹ về tranh chấp Biển Ðông. Mặc dầu ngôn ngữ bài viết có thể phản cảm đối với chúng ta (tỷ như cho người Việt ở Mỹ là “chống lại tổ quốc,” thậm chí lại còn mô tả là “phản quốc” - nhưng có lẽ chỉ với dụng ý là người Việt hải ngoại chống lại chế độ ở quê nhà, hoặc gọi Việt Nam là “mẫu quốc” của chúng ta, lẽ ra chỉ nên gọi là “quê hương đất tổ” mà thôi) nhưng nói chung, bài viết có thể xem được là khá khách quan dựa trên những con số và những dữ kiện có thật, thuộc loại “nói có sách, mách có chứng.” Dù ta đồng ý hay không với những nhận định và kết luận của bài viết, đây cũng là một bài viết có cơ sở và lạ thay, đánh giá khá tích cực vai trò của người Mỹ gốc Việt trong cuộc vận động về Biển Ðông bên cạnh chính quyền Mỹ.”
Tòa Soạn giới thiệu bài viết cùng những đoạn in nghiêng do Việt Tâm thực hiện, nhằm “nhấn mạnh để lưu ý độc giả.” Tựa bài do Người Việt đặt.
*
Sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, ảnh hưởng từ [các] nhóm lợi ích trong các quyết sách ngoại giao của Mỹ ngày càng gia tăng, dẫn đến sự vận động chính trị của các nhóm dân tộc ít người cũng tích cực hơn. Một trong những hậu quả là nhóm dân tộc ít người vận động chính trị không chỉ gây ảnh hưởng đối với lợi ích quốc gia trong thực tế hoặc trong tư tưởng của mẫu quốc (quê hương), mà còn gây ảnh hưởng đến lợi ích của nước thứ ba, đến quan hệ giữa Mỹ, mẫu quốc (quê hương họ) với nước thứ ba. Nói cách khác, nhóm vận động chính trị của dân tộc ít người không những đang ngày càng vượt khỏi mối quan hệ song phương giữa Mỹ và mẫu quốc mà còn gây ảnh hưởng quốc tế với phạm vi rộng lớn hơn. Sự vận động chính trị [của] người Mỹ gốc Việt là một điển hình.
Người Mỹ gốc Việt trong một lần biểu tình chống Trung Quốc trước Lãnh Sự Quán Trung Quốc ở Los Angeles. (Hình: Ðỗ Dzũng/Người Việt)
Những người này chủ yếu là “dân tị nạn,” “thuyền nhân” và “dân di cư” sau năm 1975. Nhóm người này mặc dù vẫn có tư tưởng chống Việt Nam, nhưng không kiên quyết và triệt để như người Mỹ gốc Cuba. Họ không phản đối bình thường hoá quan hệ Việt-Mỹ, không có ý đồ kìm hãm sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Tuy tâm lý phức tạp này đã hạn chế hiệu quả tâm lý vận động chính trị của họ, nhưng họ lại có hành động nhất trí tích cực trong vấn đề tranh chấp Nam Hải (Biển Ðông), làm cho ảnh hưởng của họ nâng cao rõ rệt: Người gốc Việt ở Mỹ có ý đồ tác động lên chính sách Nam Hải của Mỹ và Việt Nam. Từ cuối thập niên 50 của thế kỷ trước, họ đã từng tác động ảnh hưởng đến chính sách của Mỹ và Việt Nam về vấn đề Nam Hải. Những năm gần đây, việc làm của họ đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyết sách can dự toàn diện vào Nam Hải của Mỹ. Ðồng thời, họ đã trở thành tấm gương trong số dân di cư gốc Ðông Nam Á khác tại Mỹ lên tiếng về quyền lợi Nam Hải.
1. Ðặc trưng dân số ảnh hưởng đến nhóm vận động chính trị người Việt
Giống như các nhóm dân tộc ít người vận động chính trị khác, trước hết là đặc điểm thành phần cơ cấu của nhóm vận động chính trị gốc Việt ở Mỹ mang tính quyết định. Lịch sử của họ trên đất Mỹ không dài: Mặc dù trước năm 1975, một số dân di cư người Việt đã đến Mỹ, nhưng số lượng rất ít, chủ yếu là sinh viên và một số phụ nữ Việt lấy chồng Mỹ cùng một số quân nhân Nam Việt Nam được Mỹ đào tạo. Sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975, rất nhiều người Việt đã di cư ồ ạt sang Mỹ. Trong hơn 30 năm qua, số lượng người Việt ở Mỹ tăng nhanh, trở thành dân tộc có quy mô lớn về dân số trong số người Mỹ gốc Châu Á và có ảnh hưởng quan trọng đến xã hội Mỹ. Theo số liệu năm 2006 của Cục Thống Kê Dân Số Mỹ, nước Mỹ có khoảng 1.5 triệu người Việt. Số lượng người Việt ở Mỹ chỉ đứng sau người gốc Hoa, gốc Ấn Ðộ và Philippines, đứng thứ tư trong số các dân tộc Châu Á ở Mỹ. Về tổng thể, quá trình di cư của người Việt tại Mỹ có thể chia ra thành ba đợt. Ðặc điểm của nhóm người Việt ở Mỹ có liên quan đến vấn đề này.
Làn sóng dân di cư người Việt đầu tiên gọi là “dân tị nạn,” họ rời khỏi Việt Nam chủ yếu xuất phát từ tâm lý “sợ hãi” bị hãm hại và trấn áp về chính trị sau khi đất nước thống nhất. Nhóm người này đều đến Mỹ sau tháng 4, 1975 khi Sài Gòn được giải phóng và Việt Nam thống nhất đất nước. Họ đều có địa vị kinh tế xã hội khá cao. Chỉ trong vòng 8 tháng (từ tháng 4 - tháng 12, 1975), số dân tị nạn người Việt sang Mỹ lên tới hơn 129,000, rải khắp 5 bang của Mỹ. Trong nhóm người này, nhiều người là quan chức cấp cao của chính phủ và quân đội miền Nam Việt Nam. Nhiều người trong số họ có quan hệ hợp tác gắn bó với người Mỹ như thư ký, phiên dịch, chuyên gia tình báo, nhân viên truyền thông... Theo một cuộc điều tra, 47.8% có trình độ tốt nghiệp cấp 3; 22.9% học qua đại học; 7.2% là bác sĩ, 24% làm công tác chuyên môn kỹ thuật và quản lý, chỉ có 4.9% là nông dân và ngư dân. Nếu xét ở thời kỳ ấy, hơn 60% dân Việt Nam là nông dân thì có thể thấy số dân di cư đợt này chủ yếu là tầng lớp tinh hoa.
Làn sóng di cư thứ hai được gọi là “thuyền nhân,” trong đó phần lớn là “Kiều dân” (Hoa kiều). Họ di cư cũng vì nguyên nhân chính trị. Sau khi Việt Nam bắt đầu thực hiện bá quyền khu vực từ năm 1978, nhiều người bị đối xử bất công đã tìm cách rời khỏi Việt Nam. Họ đi bằng thuyền hoặc đi bộ nên được gọi là “thuyền nhân.” Họ đi qua Campuchia rồi sang Thái Lan, sau đó đến các trại tỵ nạn ở Malaysia, Indonesia, Hong Kong, Thái Lan hoặc Philippines. Cuối cùng, họ được Mỹ, Canada, Australia và một số ít nước Tây Âu coi là “dân tị nạn” và có tư cách hợp pháp. Trong khoảng thời gian từ năm 1976-1988, “thuyền nhân” Việt Nam sang Mỹ lên tới gần 500,000 người. Ðiều cần phải chỉ rõ là nhiều “thuyền nhân” thực tế là Hoa kiều nhập quốc tịch Việt Nam. Trong thời kỳ này, do quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc xấu đi, đặc biệt là sau chiến tranh biên giới Trung-Việt năm 1979, chính phủ Việt Nam bắt đầu xua đuổi hàng loạt Hoa kiều quốc tịch Việt Nam. Chính sách này [được] liên tục thực hiện trong vài năm, hàng trăm nghìn người Hoa đã bị đuổi khỏi Việt Nam. Mặc dù nhiều người Hoa quay về Trung Quốc, nhưng có một bộ phận khá đông phiêu bạt khắp thế giới, trong đó nước Mỹ là nơi họ đến đông nhất. Trong thời kỳ này, 300 nghìn người Hoa đã đến Mỹ. Theo số liệu của Cục Thống Kê Dân Số Mỹ, tính đến năm 2000, số người này là 390,000 người.
Làn sóng dân di cư thứ ba là họ hàng thân thuộc của những người di cư trong hai đợt trên hoặc con lai của quân nhân Mỹ tại Việt Nam. Họ đến Mỹ từ cuối những năm 80 đến thập niên 90 của thế kỷ XX. Sau khi nhóm ngưòi Việt trong hai đợt đến Mỹ và có được tư cách hợp pháp, họ đã đặt vấn đề làm thế nào để đưa thân nhân của họ sang Mỹ thành chương trình nghị sự của chính phủ Mỹ. Ðể tránh những hiểm nguy to lớn trên đường mà những người di cư trong hai đợt trên gặp phải, Mỹ và các nước khác đã xây dựng chương trình cho phép họ rời Việt Nam đến trực tiếp Mỹ và các nước khác. Ở Mỹ, đây là “Chương trình ra đi có trật tự” [tức ODP, tắt cho Orderly Departure Program - Ghi chú của NBT]. Tính đến năm 1998, chương trình này đã tiếp nhận 362,000 dân di cư Việt Nam. Cũng vào thời gian đó, Mỹ đã thực hiện hai chương trình được coi là khoản bồi thường cho “đồng minh Nam Việt Nam” thời chiến tranh, đó là “chương trình nhân đạo” [“Humanitarian Program” hay còn gọi là H.O, tắt cho “Humanitarian Operation Program”- NBT ghi chú] và “Chương trình người Châu Á ở Mỹ” [“Amerasian Program”- NBT ghi chú] còn được gọi là “Luật người Mỹ hồi hương” [“Amerasian Homecoming Act”- NBT ghi chú]. Quốc Hội Mỹ đã thông qua luật này vào năm 1988 và năm 1989 bắt đầu thực thi, trọng điểm được quan tâm của luật này là giúp con cái binh lính Mỹ và thân nhân của họ ở Việt Nam trở về Mỹ. Tính đến năm 2000, chương trình này đã tiếp đón 84,000 người. So với số người di cư trong hai đợt đầu, thành phần lần này phức tạp hơn. Họ thường có hiểu biết nhiều về xã hội và có kinh nghiệm đấu tranh, thường xuyên tổ chức ra các nhóm cánh hữu và tụ tập người Việt Nam di cư sang Mỹ và sống rải rác khắp thế giới tham gia vào “sự nghiệp chống cộng.”
Do cao trào ba đợt di cư kể trên, người gốc Việt ở Mỹ có một số đặc điểm về cơ cấu, đồng thời thực tiễn vận động chính trị của họ đã có ảnh hưởng quan trọng. Trước hết, động cơ của dân di cư chủ yếu xuất phát từ tính toán chính trị, do đó họ có lập trường chính trị khá bảo thủ, đa số ủng hộ Ðảng Cộng Hoà Mỹ có lập trường chống cộng. Chẳng hạn, theo điều tra lần đầu tiên vào năm 2000, 600 người Việt được hỏi ở Quận Cam coi nhiệm vụ “chống cộng” là công việc “quan trọng hàng đầu” hoặc “vô cùng quan trọng.”
Thứ hai, giống như các dân tộc ít người khác ở Mỹ, người Việt cư trú khá tập trung, đã nâng cao được tầm quan trọng của họ về chính trị. Mặc dù ngay từ đầu, chính phủ Mỹ đã thực hiện chính sách phân tán người Việt, nhưng chính sách này nhanh chóng bị phá sản do họ chủ động ở tập trung với nhau. Ngay từ năm 1982, người Việt ngày càng tập trung nhiều ở Quận Cam bang California, đặc biệt là khu vực Garden Grove - được mệnh danh là “tiểu Sài Gòn.” Ðây được coi là “thủ đô của người Việt lưu vong.” Hiện nay, người Việt chủ yếu sống tập trung ở một số nơi như khu vực Galena, Texas, New York...
Cuối cùng, địa vị kinh tế xã hội của người Việt không cao. Ðiều này không có lợi cho việc tăng cường hoạt vận động chính trị. Mặc dù địa vị kinh tế xã hội của nhóm người di cư đợt đầu khá cao nhưng địa vị kinh tế xã hội của hai nhóm người di cư đợt sau lại kém xa. Những người Việt Nam mới đến Mỹ do những nguyên nhân như cơ sở kinh tế kém, trình độ ngôn ngữ hạn chế nên phần lớn phải chọn công việc thu nhập không cao. Sau năm 1990, địa vị kinh tế của người gốc Việt nâng lên nhanh chóng. Chẳng hạn như bang Massachusetts, đến năm 2007, bình quân thu nhập của một gia đình gốc Việt là 57,000 USD/năm, bình quân thu nhập đầu người là 23,000 USD/năm, nhưng vẫn thấp hơn bình quân thu nhập của một gia đình người gốc Châu Á ở Mỹ là 69,000 USD/năm và 30,000 USD/năm một đầu người.
2. Thực tiễn vận động chính trị của người Việt ở Mỹ
Ðặc điểm lập trường chính trị của người Việt khá bảo thủ và dân cư sống tập trung với nhau nên họ có ảnh hưởng chính trị nhất định. Tuy nhiên, địa vị kinh tế của họ lại không được cao đã hạn chế họ phát huy ảnh hưởng chính trị ở mức độ nhất định. Ðúng như một học giả đã nói: “Từ sự tương phản rõ ràng trong quan hệ Mỹ-Cuba và quan hệ Mỹ-Việt, có thể phát hiện sự khác biệt giữa người Mỹ gốc Cuba với người Mỹ gốc Việt. Ðó là sự tồn tại của “quy tắc đồng tiền”; “ai có tiền và cho tiền thì kẻ đó có thể nắm giữ các quy tắc.” Do đó, Mỹ có thể tiếp tục cứng rắn với Cuba, nhưng lại cởi mở với Việt Nam. Vì vậy có thể thấy, việc vận động chính trị của người gốc Việt thể hiện trạng thái tâm lý “hai mặt,” giữa vận động tích cực và phản quốc một cách điển hình.
Do lịch sử di cư sang Mỹ như vậy nên việc vận động chính trị của người gốc Việt chủ yếu bắt đầu từ sau năm 1975. Ðương nhiên, trong hoảng thời gian từ năm 1955-1975, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt là chính quyền Ngô Ðình Diệm đã xây dựng một lực lượng vận động chính trị lớn,[1] tạo cơ sở để vận động chính trị về sau. Tuy nhiên, vào thời kỳ ấy, vận động chính trị phần nhiều là để thúc đẩy mạnh mẽ sự nhiệt tình chống cộng vốn có của người Mỹ. Vì vậy, vận động chính trị của người Việt chỉ có thể chính thức được mở rộng khi có đông đảo người Việt Nam di cư sang Mỹ sau năm 1975. Các cuộc vận động chính trị của người Việt tại Mỹ có thể chia làm hai giai đoạn: trước và sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ (năm 1995).
Trước năm 1995, do ký ức Chiến Tranh Lạnh còn nặng nề và quan hệ Việt-Mỹ đối địch, vận động chính trị cua người Việt ở Mỹ mang đặc điểm chống lại Tổ quốc một cách mạnh mẽ. Ða số dân di cư Việt Nam trong thời kỳ này mang tâm lý “chống cộng” quyết liệt, do đo dễ dàng tạo ra sự đồng thuận chính trị mang tính bảo thủ. Tổ chức người gốc Việt ở Mỹ có nhiều nhóm vận động chính trị, nổi tiếng nhất là “Ðại hội toàn quốc người Mỹ gốc Việt” [2] [đích thực là “Nghị hội Toàn quốc Người Việt tại Hoa kỳ,” tắt là “Nghị hội.”- Ghi chú của NBT], “Hiệp hội giáo dục và phát triển Campuchia-Lào-Việt Nam ở Mỹ” [Trong tiếng Anh là “National Association for the Education and Advancement of Khmer, Lao and Vietnamese Americans,” tắt là NAFEA- Ghi chú của NBT], “Thuyền nhân SOS” [tức “Boat People S.O.S., Inc.”- Ghi chú của NBT], “Hiệp hội gia đình tội phạm chính trị” [đích thực là “Hội Gia đình Tù nhân Chính trị VN,” trong tiếng Anh là “Families of Vietnamese Political Prisoners Association,” viết tắt là FVPPA- Ghi chú của NBT], “Ủy ban Hành động Chính trị của người Mỹ gốc Việt” [tức “Vietnamese Political Action Committee,” tắt là VPAC - Ghi chú của NBT]... Trong giai đoạn này, thành công của nhóm vận động chính trị thể hiện trên ba phương diện: Trước hết, họ ủng hộ xây dựng Ðài Châu Á Tự Do. Bắt đầu từ năm 1985, người Việt đã ra sức thúc đẩy xây dựng Ðài Châu Á Tự Do, các biện pháp vận động chính trị chủ yếu là viết thư thỉnh nguyện và gặp mặt các đại biểu Quốc Hội. Trong quá trình biểu quyết một quyết nghị có liên quan đến bình thường hóa quan hệ Mỹ-Việt năm 1994, người gốc Việt là dân tộc ít người duy nhất trong số các dân tộc ở Châu Á ở Mỹ ủng hộ quyết định này. Thứ hai, họ giành thắng lợi trong việc kiện Bộ Ngoại Giao Mỹ. Tháng 3, 1994, 250 người Việt đã gửi đơn kiện Bộ Ngoại Giao Mỹ, ép bộ này đánh giá lại chính sách đối với dân di cư là thuyền nhân Việt Nam bị lưu giữ kéo dài ở Hong Kong, không cho đẩy trở lại hoặc buộc họ viết lại đơn xin nhập cư. Cuối cùng, thông qua vận động chính trị đối với các nghị sĩ Quốc Hội, đặc biệt là bà Leslie Byrne, nghị sĩ bang Virginia, người gốc Việt đã thành công trong việc thông qua nghị quyết ở Quốc Hội. Từ đó, ngày 11 tháng 5, 1994 trở thành “Ngày Nhân Quyền Việt Nam.”
Vận động hành lang chống lại Tổ quốc của họ trong giai đoạn này còn thể hiện ở chỗ có sự tranh luận quyết liệt, thậm chí sát hại nhau về việc Mỹ và Việt Nam có nên bình thường hóa quan hệ ngoại giao hay không? Những người Mỹ gốc Việt đề xướng bình thường hóa quan hệ ngoại giao hoặc thương mại Mỹ-Việt thường ở vào tình thế khó khăn. Chẳng hạn, tháng 8, 1989, nhà hoạt động phản chiến nổi tiếng Ðoàn Văn Toại đã bị bắn chết [3] do viết bài kêu gọi thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Mỹ; ngày 28 tháng 5, 1984, vợ chồng Nguyễn Văn Lũy và Phạm Thị Lưu [ở San Francisco, CA - Ghi chú của NBT] là những người đề xuất mở rộng quan hệ thương mại với Việt Nam đã bị bắn, ông Lũy chỉ bị thương còn bà Lưu thì chết. Vào cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, nhân lúc nền kinh tế Việt Nam bên bờ vực sụp đổ, nhiều người Việt ở Mỹ vẫn cho rằng không nên cứu chính quyền Ðảng Cộng Sản ở Hà Nội, trừ phi họ từ bỏ chủ nghĩa cộng sản.
Khi kết thúc Chiến Tranh Lạnh và người Việt ngày càng hội nhập vào xã hội Mỹ, việc vận động chính trị của người gốc Việt tại Mỹ cũng dần dần chuyển hướng. Ðến năm 1995 đã bước sang giai đoạn thứ hai khi Việt Nam và Mỹ bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Họ một mặt không phản đối quan hệ Việt-Mỹ, đặc biệt là bình thường hóa quan hệ thương mại, mặt khác vẫn đánh giá tiêu cực đối với thể chế chính trị, nhân quyền, dân chủ và tự do tôn giáo trong nước Việt Nam. Tâm lý phức tạp này dẫn đến họ ủng hộ sự phát triển quan hệ Việt-Mỹ, ủng hộ sự phát triển trong nước của Việt Nam, nhưng mặt khác lại đòi chính phủ Mỹ có biện pháp cứng rắn buộc Việt Nam phải cải thiện tình hình chính trị, nhân quyền, tự do tôn giáo...
Mặc dù tự nhận là “dân tị nạn,” nhưng những người Mỹ gốc Việt vẫn có tình cảm dân tộc mãnh liệt đối với quê hương. Nhiều người Việt mong muốn có thể quay trở lại Việt Nam sau khi nước này thực hiện dân chủ. Ví dụ, theo một điều tra dư luận người gốc Việt ở Quận Cam, 62% người được hỏi mong muốn quay lại Việt Nam sau khi nước này có tự do dân chủ. Xuất phát từ tình cảm đối với quê hương, mặc dù vẫn thường nhấn mạnh tình hình nội bộ chính trị ở Việt Nam, người gốc Việt dần dần không còn phản đối bình thường hóa quan hệ ngoại giao, cũng như sự phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước. Tuy nhiên, do các nguyên nhân như khả năng kinh tế và ý thức tham gia chính trị, người gốc Việt vẫn chưa ảnh hưởng nhiều đến việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Họ tin rằng xây dựng quan hệ ngoại giao có thể làm cho quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước được tăng cường, nhưng nhất định phải buộc nhà cầm quyền Việt Nam trả giá chính trị tương ứng, đó là phải cải thiện vấn đề nhân quyền, tôn giáo, dân chủ ở Việt Nam. Chẳng hạn, Chủ tịch Hiệp hội Tội phạm Chính trị Việt Nam [tên đích xác là “Hội Cựu Tù nhân Chính trị VN.”- Ghi chú của NBT] ở bang Connecticut cho rằng nền kinh tế kế hoạch hóa nhất định phải cần đến giải pháp đồng bộ về dân chủ ở Việt Nam. Một ví dụ khác đó là người Việt đầu tiên là hạ nghị sĩ [= Dân biểu - Ghi chú của NBT] Mỹ Joseph Cao đã thể hiện tâm lý phức tạp khi đến thăm Việt Nam năm 2010. Ông tỏ ra vui mừng trước sự phát triển của Việt Nam, cho rằng mặc dù Việt Nam và Mỹ có nhiều bất đồng, “nhưng không có nghĩa là hai nước không thể hợp tác. Nhiều mong muốn của tôi không trùng hợp với chính phủ Việt Nam, nhưng tôi vẫn hy vọng hai nước có thể tiếp tục hợp tác.”
Xuất phát từ sự quan tâm đối với quê hương, người Mỹ gốc Việt ủng hộ mạnh mẽ sự phát triển kinh tế trong nước. Hiện tượng này thể hiện rõ rệt nhất ở việc lượng kiều hối của Việt kiều tại Mỹ đều tập trung về Việt Nam và trở thành kênh quan hệ để Việt Nam giao lưu với Mỹ. Năm 1990, lượng kiều hối gửi về chỉ có 23 triệu USD, đến năm 1995 khi bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ đã tăng lên 285 triệu USD, gấp 12.4 lần. Tiếp đó, lượng kiều hối tiếp tục tăng nhanh chóng lên 5.5 tỷ USD vào năm 2007.[ 4] Ðể thúc đẩy lợi ích thương mại của Việt Nam tại Mỹ, đã có người kiến nghị Việt Nam nên tận dụng cơ chế vận động hành lang ở Mỹ, đặc biệt là thông qua lực lượng người Việt ở nước này. Thượng Nghị Sĩ Jim Webb là người chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các cuộc vận động chính trị của người Việt, cho rằng: “Mặc dù Việt Nam và Mỹ có bất đồng trong các vấn đề như nhân quyền, tôn giáo, tự do, nhưng Mỹ có hơn 2 triệu người gốc Việt.
Họ có thể làm cầu nối rất tốt giữa hai nước
Dù vậy, người Việt tại Mỹ vẫn giữ thái độ tiêu cực đối với chế độ chính trị, nhân quyền, tự do tôn giáo ở Việt Nam. Họ thường yêu cầu chính phủ Mỹ khi trao cho Việt Nam lợi ích về kinh tế phải kèm theo điều kiện chính trị. Chẳng hạn, trước khi biểu quyết thông qua “Quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn” (PNTR, tắt cho Permanent Normal Trade Relations.- Ghi chú của NBT] cho Việt Nam vào tháng 7, 2006, trên tờ USA Today, hơn 50 tổ chức của người Việt ở Mỹ bao gồm “Ðồng minh dân chủ Việt Nam” [đích thực là “Liên minh Dân chủ VN.” Ghi chú của NBT], “Ủy ban Tự do Tôn giáo Việt Nam,” “Hội đồng Nhân quyền Việt Nam” [có lẽ ý muốn nói “Mạng Lưới Nhân Quyền VN ”- Ghi chú của NBT] đã công khai đăng bức thư gửi Tổng Thống Bush và Quốc Hội Mỹ, yêu cầu phía Mỹ quan tâm đến vấn đề nhân quyền, đưa ra những điều kiện tiên quyết cho PNTR, trong đó có thả tù nhân phạm tội về tôn giáo và chính trị, chấm dứt giam lỏng [chế độ quản chế - Ghi chú của NBT], cho phép và thừa nhận các hội độc lập, thực sự tự do báo chí... Phần cuối của bức thư này kêu gọi: “Nếu chưa làm được những điều trên, đề nghị từ chối cấp PNTR cho chính quyền độc tài cộng sản Việt Nam.” Ðầu Xuân năm 2007, do chính phủ Việt Nam bắt giữ một số nhân sĩ tôn giáo, do sự hối thúc của nhiều nhóm người Việt, Nhà Trắng và Bộ Ngoại Giao Mỹ đã công khai phê phán chính phủ Việt Nam. Tổng Thống [George W.] Bush và Phó Tổng Thống [Dick] Cheney đã tổ chức cuộc gặp 45 phút với các tổ chức nhân quyền của người Việt ở Mỹ vào tháng 5, 2007. [5] Hạ Viện Mỹ đã thông qua nghị quyết lên án Việt Nam với tỷ lệ 404/404 phiếu thuận. Hạ Nghị Sĩ [= Dân biểu] Earl Blumenauer thuộc Ðảng Dân Chủ, trưởng ban liên lạc Quốc Hội Mỹ-Việt, cũng tuyên bố từ chức để phản đối việc làm của chính phủ Việt Nam. Trước khi Ngoại Trưởng Hillary đến thăm Việt Nam vào tháng 7, 2010, các Hạ Nghị Sĩ [= Dân biểu] như Loretta Sanchez, Barbara Boxer, Mel Martinez... [đích thật hai vị sau này là Thượng nghị sĩ - Ghi chú của NBT] đều yêu cầu Hillary nhắc nhở vấn đề nhân quyền, tự do tôn giáo với chính phủ Việt Nam - trên thực tế Hillary đã làm như vậy.
Người Việt ở Mỹ có tâm lý phức tạp đối với quê hương của họ. Ðiều này đã dẫn đến tranh cãi trong nhiều vấn đề liên quan đến Việt Nam. Chẳng hạn, tháng 12, 1998, một tiểu thương người Việt ở Little Saigon, bang California [tên Trần Trường - Ghi chú của NBT] đã treo tấm ảnh Hồ Chí Minh cỡ lớn và cờ đỏ sao vàng Việt Nam tại cửa hàng của mình, dẫn đến hoạt động biểu tình quy mô lớn trong một thời gian dài. Cuộc biểu tình này kéo dài 4 tháng, lúc đông nhất có hơn 15,000 người tham gia, diễn ra 53 ngày tại riêng cửa hàng của ông này, những người biểu tình yêu cầu ông chủ cửa hàng hạ ảnh Hồ Chí Minh và quốc kỳ [VNCS - Ghi chú của NBT] xuống. Nhưng ông ta nói đây là quyền tự do của ông và không chịu thực hiện. Ngoài ra, Tạp chí “Thời Ðại” [tức tờ TIME - Ghi chú của NBT] đã đăng bài viết về Hồ Chí Minh, coi cụ Hồ là chiến sĩ đấu tranh cho tự do, từng bị cầm tù. “Ðảng Dân Chủ Việt Nam” ở Mỹ đã viết thư gửi tạp chí này để phản đối và đòi sửa lại bài viết trên.
Mặc dù hiện nay còn khó đưa ra kết luận, nhưng cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2008 [6] dường như đã hé lộ tín hiệu thay đổi trong sự vận động chính trị của người Việt, bởi vì cơ cấu phiếu bầu của họ đã có dấu ấn thay đổi. Mặc dù nhìn chung sự ủng hộ của người Việt đối với Ðảng Cộng Hòa vẫn chưa thay đổi, nhưng đi sâu nghiên cứu sẽ phát hiện mạch ngầm phía sau: Một mặt, người Việt là nhóm dân tộc gốc Châu Á duy nhất ủng hộ John McCain, sự ủng hộ của họ đối với ông này cao gấp đôi so với Barack Obama. Mặt khác, số phiếu ủng hộ của người Việt trẻ sinh ra ở Mỹ đối với Obama lại lên tới 69%, số phiếu bầu của những người Việt tuổi từ 18-29 cũng lên tới 60%. Mặc dù hai nhóm người Việt này chỉ là thiểu số (chiếm 15% và 25%), nhưng họ lại là nhóm người chủ yếu trong tương lai. Ngoài ra, tính chất đảng phái của người Việt cũng thay đổi: Người Việt trên 45 tuổi muốn tham gia tranh cử nhiều hơn, chủ yếu đăng ký là người của Ðảng Cộng Hòa. Ngược lại, nhiều người Việt dưới 45 tuổi lại muốn đi theo Ðảng Dân Chủ hoặc ứng cử viên độc lập, tỷ lệ tham gia tranh cử bằng một nửa so với nhóm trên 45 tuổi.
3. Việc vận động chính trị của người Việt ở Mỹ với vấn đề tranh chấp Nam Hải (Biển Ðông)
Nhìn chung, do hạn chế bởi địa vị kinh tế và vai trò chính trị, ảnh hưởng của sự vận động chính trị của người Việt ở Mỹ không lớn, đặc biệt là so với người Mỹ gốc Do Thái hoặc gốc Cuba. Tuy nhiên, nếu xem xét từ góc độ vấn đề Trung Quốc, quan hệ Trung-Mỹ, Trung-Việt, quan hệ Trung Quốc với các nước Ðông Nam Á, thì sự vận động chính trị của người gốc Việt khá quan trọng. Bởi vì, tuy họ còn thiếu tích cực và thiếu khả năng mở rộng vận động chính trị trong các vấn đề liên quan đến Việt Nam, nhưng họ lại là nhóm người vận động tích cực nhất trong các nhóm người gốc Châu Á ở Mỹ về vấn đề Nam Hải và tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải giữa Trung Quốc với Việt Nam. Ảnh hưởng của họ càng nổi bật hơn khi Mỹ can dự toàn diện vào tranh chấp Nam Hải năm 2010.
Người Việt ở Mỹ quan tâm đến vấn đề Nam Hải từ lâu. Ngày 19 tháng 4, 1958 [Sai, lẽ ra phải là ngày 14 tháng 9, 1958 - Ghi chú của NBT], Thủ Tướng Việt Nam Phạm Văn Ðồng đã gửi công hàm cho Thủ Tướng Trung Quốc Chu Ân Lai công nhận Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) là của Trung Quốc. Ngay vào thời điểm đó, những người Việt đang công tác tại Bộ Ngoại Giao Mỹ đã nhanh chóng công bố cho người Việt ở Mỹ bản photo “Báo Nhân Dân” [đích xác phải là “báo Nhân Dân.”- Ghi chú của NBT] của Việt Nam. Sự việc này ngay lập tức đã gây ra sự phản đối quyết liệt của người gốc Việt ở Mỹ, họ gọi hành động này của chính phủ Việt Nam là “bán nước.” Sau này, vấn đế tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam đã trở thành một vấn đề quan trọng của người Việt ở Mỹ.
Mặc dù nội bộ người gốc Việt có nhiều bất đồng lớn về thái độ đối với Việt Nam, nhưng [họ] đều nhất trí cao về việc “bảo vệ tài sản của tổ tiên để lại,” không dâng cho Trung Quốc. Ðúng như có học giả đã chi rõ: Về mặt bảo vệ “tài sản của tổ tiên,” thái độ của người Việt ở nước ngoài là mạnh mẽ nhất. Ða số họ là kẻ lưu vong trong thập niên 70 của thế kỷ XX, có tâm lý chống đối quyết liệt chính phủ Việt Nam. Họ không có cảm tình gì với lịch sử Trung Quốc giúp Việt Nam chiến thắng hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, giành được độc lập cho đất nước, giải phóng dân tộc. Họ vốn quen tiếp nhận quan niệm giá trị của phương Tây, luôn cao giọng nhất trong vấn đề Tây Sa và Nam Sa, không những đòi chủ quyền đối với hai quần đảo này, họ còn đòi chủ quyền toàn bộ Nam Hải.
Trong những năm 1991-1993 sau Chiến Tranh Lạnh, trong tình hình Mỹ đi đầu cấm vận đối với Trung Quốc, một số người Việt đã nhìn thấy cơ hội té nước theo mưa về vấn đề Nam Hải, cố sức xây dựng “Tổng hội người Việt Nam ở nước ngoài” [đích xác là “Tổng Liên Hội Người Việt Tự Do,” đã họp ở Canada và Washington, DC. Ghi chú của NBT]. Sau khi nỗ lực đó bị thất bại, từ năm 1995-2000, họ đã bốn lần tổ chức hội nghị trù bị [có lẽ tác giả muốn nói đến 4 lần Hội nghị Liên kết họp ở Virginia, Quận Cam, Milpitas Bắc-Cali, và Washington, DC - Ghi chú của NBT], có ý đồ xây dựng một mặt trận dân tộc bảo vệ “quần đảo Trường Sa.” Ðể phối hợp với tâm lý dân tộc ngày càng lên cao ở trong nước xung quanh vấn đề Trường Sa, họ đã lần lượt tổ chức hai lần “Ðại hội bảo vệ lãnh thổ” [đích xác là “Hội nghị Diên Hồng Hải ngoại Bảo toàn Lãnh thổ ”- Ghi chú của NBT] vào năm 2002 và 2005. Thậm chí, họ đã tổ chức biểu tình bên ngoài Lãnh Sự Quán Trung Quốc ở Houston. Ðương nhiên, những tổ chức này cũng ủng hộ hành động ở trong nước phản đối chính phủ Việt Nam “bán nước,” dâng lãnh thổ, lãnh hải cho Trung Quốc, đặc biệt là ủng hộ những hoạt động nhiều lần biểu tình trái phép ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Tổ chức người Việt ở Mỹ có ảnh hưởng lớn nhất đối với chính sách của Mỹ về vấn đề Nam Hải là “Hiệp hội Người Việt ở hải ngoại” (?).Tổ chức này đã vận động chính trị thông qua đề xuất chính sách một cách rộng rãi, cung cấp tiền cho các nghị sĩ tranh cử, gặp mặt các nghị sĩ và đã thu được hiệu quả khá rõ rệt... Ví dụ, tháng 11, 2003, trong lúc diễn ra chuyến thăm Mỹ của Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Việt Nam Phạm Văn Trà, tổ chức này đã gửi một kiến nghị cho Bộ Ngoại Giao Mỹ, [7] hoan nghênh sự phát triển tích cực của quan hệ Việt-Mỹ. Tuy nhiên, họ cho rằng phải quan tâm toàn diện: Về lý luận, tính chất của hai chính quyền vẫn khác biệt về bản chất, Việt Nam vẫn là một quốc gia một đảng chuyên chế; hai nước vẫn còn tồn tại bất đồng lớn trong các vấn đề như nhân quyền, tự do tôn giáo, quyền chính trị của công dân... Bản kiến nghị ấy cũng cho rằng mục đích chuyến thăm của Phạm Văn Trà phần nhiều không phải là phát triển quan hệ song phương mà là phối hợp kiềm chế Trung Quốc. Thượng Nghị Sĩ Jim Webb, Chủ tịch Tiểu ban Ðông Á và Thái Bình Dương thuộc Ủy ban Ðối ngoại của Thượng Viện Mỹ đã từng trải qua cuộc chiến tranh Việt Nam cho rằng Việt Nam và Hoa Kỳ là bạn bè tự nhiên. Việt Nam có ý nghĩa chiến lược đối với Mỹ, sự có mặt của Mỹ ở Việt Nam là vô cùng quan trọng. Chính sách ngoại giao cân bằng nước lớn của Việt Nam hết sức quan trọng đối với việc tăng cường quan hệ Việt-Mỹ, cũng hết sức quan trọng đối với việc ổn định khu vực Ðông Nam Á và Nam Hải. Tháng 7, 2009, Jim Webb đã chủ trì một cuộc điều trần về “Vấn đề chủ quyền và tranh chấp trên biển ở Ðông Á.” Bài phát biểu của ông ta đã ảnh hưởng rõ rệt đến những người Việt ở Mỹ. Khi đề cập đến vấn đề Trung Quốc bắt giữ các ngư dân Việt Nam, ông nói: “Những tranh chấp này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các quốc gia khác trong khu vực, chỉ Mỹ mới có đủ khả năng và biện pháp chống lại sự mất cân bằng sức mạnh do Trung Quốc gây ra. Nếu Mỹ muốn duy trì sự cân bằng địa chính trị trong khu vực, bảo đảm sự công bằng cho tất cả các quốc gia, bảo vệ tiếng nói của những quốc gia muốn giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, thì Mỹ phải có nghĩa vụ thực hiện nhiệm vụ này.” Sau một tháng, trong thời gian thăm Việt Nam, Jim Webb một lần nữa nhấn mạnh Mỹ phải giúp Việt Nam đối trọng với Trung Quốc.”
Năm 2009 là năm người Việt ở Mỹ vận động chính trị tích cực nhất xung quanh vấn đề Nam Hải. Ðiều này ảnh hưởng quan trọng đến chính sách của Mỹ xung quanh vấn đề Nam Hải năm 2010. Tháng 4, 2009, các tổ chức như “Ðại hội Toàn quốc người Việt” [tức Nghị hội - Ghi chú của NBT], “Tiếng nói người Mỹ gốc Việt” [“Voice of Vietnamese Americans” trong tiếng Anh - Ghi chú của NBT], đã gặp Jim Webb và bày tỏ quan điểm của họ đối với vấn đề chủ quyền quần đảo Nam Sa [tức Trường Sa - Ghi chú của NBT], đồng thời yêu cầu ông ta hãy lên tiếng thay cho Việt Nam. Tháng 7, 2009, khi đại sứ Mỹ ở Việt Nam Michael Michalak về Mỹ công tác, những người thuộc các tổ chức trên cũng đã đến gặp ông này. Khi đề cập đến vấn đề Nam Hải, ông nói: “Mỹ không thể đứng về bên nào,” mà sẽ theo đuổi một “phương pháp giải quyết mang tính khu vực.”
Tháng 12, 2009, “Ðại hội Toàn quốc người gốc Việt” [= Nghị hội] và một số tổ chức của người Việt khác đã gặp 6 nghị sĩ Ðảng Dân Chủ trong Quốc Hội (bao gồm Sam Brownback, Chris Smith, Ed Royce, Zoe Lofgren, Frank Wolf, Mike Honda). [8] Mặc dù mục đích chính của cuộc gặp là thảo luận vấn đề nhân quyền của Việt Nam, nhưng cũng thảo luận về vấn đề tranh chấp Nam Hải. Tháng 6, 2010, “Ðại hội Toàn quốc người Việt” [= Nghị hội] một lần nữa cử đại diện đến vận động chính trị ở Quốc Hội, gặp gỡ 6 nghị sĩ trên và Ủy ban Ðối ngoại của Thượng Viện Mỹ. Sứ mệnh chủ yếu của cuộc gặp này là để hoàn chỉnh “phương án giải quyết vấn đề Nam Hải.” Nội dung chủ yếu bao gồm: (1) Thống nhất tên gọi quốc tế khu vực Nam Hải là “Biển Ðông Nam Á”[9] để thuận lợi hơn khi thảo luận vấn đề này; (2) Tổ chức một cuộc thảo luận giữa các học giả quốc tế và Việt Nam, thống nhất quan điểm, lập trường và chính sách của Việt Nam trong vấn đề Biển Ðông; (3) Tổ chức hội nghị quốc tế bao gồm các đại diện của các nước có lợi ích ở Biển Ðông - trừ Trung Quốc, để cùng “ngăn chặn hành động bá quyền của Trung Quốc” ở khu vực này; địa điểm tổ chức hội nghị có thể lựa chọn Ðông Nam Á hoặc Nhật Bản. Sau khi lắng nghe phương án này, hai thượng nghị sĩ là thành viên chủ yếu của Ủy ban Ðối ngoại Thượng viện Mỹ đã ủng hộ nhiệt tình. Họ nói: “Các nước Ðông Nam Á đều yêu cầu Mỹ đứng về phía họ... Tuy nhiên, điều này làm cho chúng ta không thể đứng về bên nào. Có được một phương án toàn diện như các ngài nêu ra thì Mỹ mới có thể sẵn sàng ủng hộ.”
Do Việt Nam đảm nhiệm chức Chủ tịch Luân phiên ASEAN năm 2010 nên vận động chính trị của người Việt ở Mỹ xung quanh vấn đề Nam Hải lại càng tích cực. Trong đó, tổ chức nổi bật hơn cả là “Hội Người Việt ở Bắc California.” Ngày 20 tháng 5/2010, trước khi Ngoại Trưởng Hillary [Clinton] đến thăm Việt Nam tham dự Diễn đàn Khu vực Ðông Nam Á (ARF, tắt cho ASEAN Regional Forum - Ghi chú của NBT), tổ chức này đã kiến nghị Bộ Ngoại Giao và bà Hillary, mong muốn Mỹ giúp đỡ các ngư dân Việt Nam bị Trung Quốc bắt, lên án Hải Quân Trung Quốc và quan tâm đến tình hình Nam Hải. Sau khi Hillary lên tiếng can dự vào Nam Hải tháng 7, 2010, tổ chức này đã viết thư cho bà ta, trong thư có đoạn bày tỏ “cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất,” đồng thời mong muốn Bộ Ngoại Giao Mỹ tiếp tục quan tâm đến vấn đề này.
Cuộc vận động chính trị của người Việt ở Mỹ trong vấn đề tranh chấp Nam Hải đã mang lại hiệu quả rộng lớn. Ðiều này không những thể hiện trong tuyên bố của bà Hillary rằng Nam Hải liên quan đến “lợi ích quốc gia,” đồng thời yêu cầu thông qua diễn đàn đa phương để giải quyết tranh chấp ở khu vực này mà còn thể hiện trong việc họ đã động viên các nhóm dân tộc khác ở Mỹ tác động lên Quốc Hội Mỹ và các bên tranh chấp Nam Hải. Ví dụ, Thượng Nghị Sĩ Jim Webb vốn luôn ủng hộ các yêu cầu của người Việt ở Mỹ, một lần nữa lại đến thăm Việt Nam vào trung tuần tháng 4, 2011. Trong thời gian chuyến thăm, ông ta không những nói về tranh chấp Nam Hải mà còn mở rộng nội dung sang vấn đề xây dựng đập thủy điện lớn trên sông Mê Công. Một ví dụ khác là tính đến nay, nhiều người Mỹ gốc Indonesia, Malaysia, Philippines... đã ký tên đòi đổi tên gọi Nam Hải thành “Biển Ðông Nam Á” theo đề xuất của “Ðại hội Toàn quốc của người Việt ở hải ngoại” [= Nghị hội?- Ghi chú của NBT]. Do đó, có thể nhận thấy rất rõ ràng mặc dù Mỹ có chánh sách mang tính hệ thống, nhưng việc vận động chính trị của người Việt xung quanh vấn đề Nam Hải có liên quan chặt chẽ đến căng thẳng trong quan hệ Trung-Mỹ, Trung-Việt, Trung Quốc-ASEAN về vấn đề Nam Hải.
Ðương nhiên, cũng cần thấy rằng, trong số người Mỹ gốc Việt cũng có một bộ phận nhỏ có vai trò tích cực trong việc hạn chế những nỗ lực vận động hành lang của tổ chức như “Ðại hội Toàn quốc người [Mỹ] gốc Việt” [= Nghị hội - Ghi chú của NBT], đó là “Người Mỹ gốc Việt-Trung.” Như đã phân tích ở trên, nhiều người Việt ở Mỹ có gốc gác là người Hoa. Do đó, họ phải xác lập sự đồng thuận phức tạp hơn so với những nhóm người chỉ có một tổ quốc. Người Việt gốc Hoa đều có tình cảm với Việt Nam và Trung Quốc, do đó, họ không muốn thấy quan hệ hai nước xấu đi, hoặc các nhân tố khác làm mối quan hệ này xấu đi. Do đó, sự lựa chọn của họ thường là làm cầu nối giữa người Việt với người Việt gốc Hoa, tìm cách lấy khuôn khổ rộng lớn hơn là người Mỹ gốc châu Á để hòa giải và điều chỉnh hành động chính trị giữa người gốc Việt và người Việt gốc Hoa. Trong đó, tổ chức nổi tiếng là “Ủy ban Hành động Chính trị của người Mỹ gốc Hoa Việt-Lào-Campuchia” (IAPAC, tức Indochinese American Political Action Committee - Ghi chú của NBT). Tổ chức này do người Việt gốc Hoa, người Lào gốc Hoa và người Campuchia gốc Hoa ở Mỹ thành lập năm 2000. Họ động viên người Việt, người Lào, người Campuchia gốc Hoa tham gia vào nền chính trị Mỹ ở tầm rộng lớn hơn. Do lý lịch đa quốc gia của các thành viên, IAPAC có mục tiêu chủ yếu là đoàn kết người Hoa từng sống ở những quốc gia khác nhau, không vì lợi ích nhỏ hẹp của từng nhóm người. Từ khi thành lập năm 2000 đến nay, tổ chức này đã quyên góp thành công để ủng hộ rất nhiều ứng cử viên chính trị như: Các Hạ Nghị Sĩ [= Dân biểu] Judy Chu (Ðảng Dân chủ, bang California), Adam Schiff (Ðảng Dân Chủ, bang California) và một số dân biểu bang California như Mike Eng, Trần [Thái] Văn, Nguyễn Phó (LS. Nguyễn Văn Phổ?)... Do nỗ lực của những tổ chức trên của nhóm người Việt gốc Hoa, ảnh hưởng của người gốc Việt ở Mỹ trong vấn đề tranh chấp Nam Hải cũng bị hạn chế nhất định.
4. Kết luận
Sự vận động mang đặc điểm chính trị trong nội bộ nước Mỹ đang ngày càng được các tổ chức của những nhóm dân tộc ít người vận dụng thành thạo. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là ảnh hưởng của các cuộc vận động này thường không chỉ hạn hẹp đối với quê hương của họ. Như đã phân tích trong bài viết này, do đặc điểm của quá trình di dân, địa vị kinh tế và quá trình tham gia chính trị, người gốc Việt ở Mỹ có đặc điểm vận động chính trị chống lại tổ quốc trước khi hai nước bình thường hóa quan hệ vào năm 1995, nhưng diễn biến tình hình sau đó phức tạp hơn. Một mặt, họ không phản đối, thậm chí là ủng hộ sự phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước, mặt khác lại có ý đồ gắn kèm theo một số điều kiện chính trị. Do tâm lý phức tạp trên, ảnh hưởng của các cuộc vận động chính trị của người gốc Việt đến chính sách của Mỹ đối với Việt Nam bị hạn chế nhiều.
Tuy vậy, không thể vì thực tế trên mà coi thường các cuộc vận động chính trị của họ. Bởi vì, ảnh hưởng của họ rất quan trọng đối với tranh chấp Nam Hải. Ngoài người Việt gốc Hoa, đa số người gốc Việt đều nhất trí phản đối Việt Nam “nhượng bộ” Trung Quốc. Ngoài ra, họ còn có ý đồ vận động chính phủ Mỹ phát huy vai trò tích cực hơn trong tranh chấp Nam Hải, có ý đồ đưa ra “phương án giải quyết toàn diện” vấn đề này. Ảnh hưởng sâu rộng hơn, đáng quan tâm hơn là những nỗ lực của họ có thể động viên dân di cư gốc Ðông Nam Á đang sinh sống tại Mỹ hành động về quyền lợi của quê hương họ ở Nam Hải, dẫn đến quốc tế hóa tranh chấp Nam Hải, đồng thời tranh chấp Nam Hải trở thành công việc của nội bộ nước Mỹ.
*
Chú thích
[1] Tác giả bài báo đang muốn nói đến tổ chức “Americans Friends of Vietnam” (AFV) là một tổ chức vận động hành lang dưới thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, được tài trợ một phần bởi chính quyền Ngô Ðình Diệm.
[2] Một đặc điểm của bài nghiên cứu này là không đưa được ra tên chính thức của các tổ chức người Mỹ gốc Việt. Lý do gần như chắc chắn là tại vì các tác giả của bài viết đã phải dịch từ các nguồn tin bằng tiếng Anh nên họ đã không biết tên thật của các tổ chức của người Việt hải ngoại. Vì vậy nên chúng tôi đã cố gắng cung cấp các tên chính thức này cho người đọc có thể nhận diện được dễ dàng các tổ chức được nhắc đến trong bài báo.
[3] Thông tin này không chính xác. Ông Ðoàn Văn Toại chỉ bị bắn trọng thương, sau đó đã phục hồi.
[4] Theo một nguồn tin chính thức thì tiền kiều hối gởi về trong nước đã lên đến gần 10 tỷ đô la (9.6 tỷ) trong năm 2011. Tuy nhiên, phải biết là chỉ khoảng hơn nửa số tiền này là do người Việt ở Mỹ gởi về, chỗ còn lại có những nguồn như từ Âu Châu, Úc Châu và nhất là từ Ðông Âu và Liên Bang Nga.
[5] Trong cuộc gặp gỡ này, Tổng Thống Bush và Phó Tổng Thống Dick Cheney đã gặp các ông Lê Minh Nguyên (Mạng Lưới Nhân Quyền VN), ông Ðỗ Hoàng Ðiềm (Ðảng Việt Tân), ông Ðỗ Thành Công (Ðảng Dân Chủ Nhân Dân) và BS Nguyễn Văn Ngãi (Ðảng Dân Chủ VN). GS Ðoàn Viết Hoạt (IIV, tức International Institute for Vietnam) có được mời nhưng không tham dự.
[6] Ðây là một bằng chứng bài viết do nhiều người phác thảo xong được gom lại. Vì thế nên nếu đoạn cuối bài nói đến những sinh hoạt cập nhật hơn thì đoạn này còn đang nói về cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc năm 2008.
[7] Tưởng cũng nên nhắc là trước khi bà cho ông Phạm Văn Trà đến gặp, nữ Dân Biểu Nancy Pelosi, lúc bấy giờ là chủ tịch Hạ Viện Mỹ, đã có cuộc gặp gỡ trước để trao đổi với một phái đoàn của người Mỹ gốc Việt gồm Pháp sư Thích Giác Ðức thuộc Văn phòng II, Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất, ông Nguyễn Ngọc Bích đại diện cho Nghị hội và ông Ðỗ Hoàng Ðiềm, chủ tịch đảng Việt Tân.
[8] Trong số những nhân vật này chỉ có một người là thượng nghị sĩ, ông Sam Brownback thuộc Ðảng Cộng Hòa, còn năm vị kia đều là dân biểu, hai người thuộc Ðảng Dân Chủ (Zoe Lofgren và Mike Honda) còn ba người thuộc Ðảng Cộng Hòa (Chris Smith, Ed Royce và Frank Wolf).
[9] Cuộc vận động đổi tên Biển Ðông hay Nam Hải thành một tên quốc tế là “Biển Ðông Nam Á” (Southeast Asia Sea) chính thật là một sáng kiến của Nguyễn Thái Học Foundation đã được đưa lên Petition on Line trên Mạng Lưới Toàn Cầu. Tính đến nay, sáng kiến này đã thu hút được 54 nghìn chữ ký đến từ trên 100 quốc gia trên thế giới, gồm rất nhiều người ký tên gốc Ðông Nam Á. Nghị hội vì đồng ý với cuộc vận động này nên cũng đã mang lên vận động trên Quốc Hội Hoa Kỳ và lấy được sự đồng tình của không ít dân biểu nghị sĩ Mỹ trong vấn đề này.
![]() |
| Một đảo lớn trong quần đảo Hoàng Sa. (Ảnh: viet.rfi.fr) |
Bài 2: Việt Nam quản lý Hoàng Sa, Trường Sa liên tục và hoà bình
(VOV) - Các tài liệu lịch sử đáng tin cậy cho phép kết luận ngay rằng, từ lâu và liên tục trong hàng mấy trăm năm, Nhà nước Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong phần đầu của loạt bài “Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa nhìn từ công pháp quốc tế”, chúng tôi đã đưa ra các dẫn chứng để chúng minh rằng, Việt Nam là quốc gia đầu tiên xác lập chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa.
Có một vấn đề đặt ra là: Việt Nam có tiếp tục làm chủ hai quần đảo này không? Và việc chiếm hữu, khai thác nó của Nhà nước Việt Nam có bao giờ gặp phải sự phản đối của một quốc gia nào khác không?
Các tài liệu lịch sử của Việt Nam rất nhiều, khớp với các tài liệu nước ngoài đáng tin cậy cho phép kết luận ngay rằng, từ lâu và liên tục trong hàng mấy trăm năm, từ triều đại này đến triều đại khác, Nhà nước Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhiều bản đồ, tập địa đồ hay sách địa lý nước ta chỉ rõ, các quần đảo là một bộ phận của nước ta, cụ thể là: Giáp Ngọ Bình Nam Đồ, 1774; Đại Nam Nhất Thống toàn đồ, 1838; Đại Nam Nhất Thống chí, 1882,…
Sự quản lý thật sự các quần đảo cũng xuất hiện trong nhiều tài liệu khác của Việt Nam. Những tài liệu quan trọng nhất có thể kể ra là: Đại Nam thực lục tiền biên, 1884 và Đại Nam thực lục chính biên, 1848; Đại Nam nhất thống chí, 1882,…
TS. Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới của Chính phủ cho biết, một số tài liệu này có những lời phê bằng mực son, bút tích của nhà vua: “Trong kho lưu trữ ở Huế, chúng ta đã tìm được những bút phê của nhà vua trong việc thành lập đội Hoàng Sa, rồi cử đội này ra Hoàng Sa và Trường Sa, với thời gian cụ thể và cả các quyết định phong chức cho các đội trưởng để chỉ huy ra Hoàng Sa và Trường Sa như Phạm Quang Ảnh, Phạm Hữu Nhật,vv… mà hiện nay các tên tuổi đó được ghi nhận ở một số đảo trên quần đảo Hoàng Sa của chúng ta như đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh, Quang Hòa. Chúng ta cũng tìm được các gia phả của các dòng họ ở xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn các văn bản của nhà vua trong việc cử các đinh tráng xung vào đội Hoàng Sa.
Đây chính là bằng chứng pháp lý để nói rằng, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.
Nhà nước phong kiến Việt Nam từ lâu đã tổ chức việc khai thác hai quần đảo này. Các biện pháp này thể hiện chính sách quốc gia chú trọng tới các lợi ích biển.
Trong thế kỷ XVIII, nhà Nguyễn đã thành lập các đội đi biển có tính nhà nước. Tổ chức và hoạt động của chúng được mô tả chi tiết trong cuốn sách của Lê Quý Đôn năm 1776. Các đội này có nhiệm vụ đặc biệt, một số để thu lượm các hải sản tại các đảo gần bờ, số khác để thu lượm các đồ vật từ các tàu bị đắm ở ngoài khơi.
Điều này cũng được mô tả trong Toản tập Thiên nam chí lộ đồ thư từ thế kỷ XVII: “Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa đông đưa 18 chiếc thuyền đến (Bãi Cát Vàng) lấy hoá vật, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn".
Hay trong Đại Nam thực lục tiền biên (1884): "Hồi đầu dựng nước, đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm đến tháng 3 đi thuyền ra đảo, độ ba ngày đêm thì đến, thu lượm hoá vật, đến tháng 8 trở về nộp. Lại có đội Bắc Hải mộ dân ở phường Tứ Chính ở Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, được lệnh đi thuyền ra các vùng Bắc Hải, Côn Lôn thu lượm hoá vật. Đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản".
Trong giai đoạn từ năm 1771 đến năm 1802, lịch sử nước ta được đánh dấu bằng sự đối đầu của các triều đại phong kiến. Khi nhà Nguyễn được khôi phục lại (1802) đến khi ký với Pháp Hiệp ước 1884, các vua nhà Nguyễn ra sức củng cố chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Đại Nam thực lục chính biên kể lại, năm 1815, vua Gia Long cử Phạm Quang Ảnh chỉ huy đội Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để khảo sát và đo đạc đường biển.
Vua Minh Mạng, năm 1833, đã ra chỉ thị cho Bộ Công phái người tới dựng miếu, lập bia, trồng nhiều cây cối ở Hoàng Sa. Chỉ thị viết: “Ngày sau, cây cối to lớn, xanh tốt, người dễ nhận biết, có thể tránh được nhiều mắc cạn.”
Năm 1836, vua Minh Mạng tiếp tục thực hiện làm địa bạ toàn quốc. Đại Nam thực lục chính biên ghi lại như sau: “Phải ghi chép mọi việc, mọi chi tiết và tường trình cho trẫm rõ. Khi thuyền đến một nơi nào, một hòn đảo hay một bãi cát, thuyền trưởng phải đo kĩ chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều sâu, chiều rộng và cả chu vi của hòn đảo hoặc của bãi cát, độ sâu của nước vùng ở xung quanh, dò tìm các bãi đá ngầm, xem đó có nguy hiểm cho tàu bè hay không, khảo sát đất đai, đo đạc và vẽ bản đồ.”
Cùng năm này, vua Minh Mạng sai đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền ra Hoàng Sa đo đạc, vẽ bản đồ và cắm các cọc để đánh dấu những nơi đã kiểm tra. Trên mỗi cọc có ghi dòng chữ: “Năm Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân (1836), thừa hành Hoàng thượng, thủy quân đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật đã ra đây, tại đảo Hoàng Sa để đo đạc địa hình và cắm cọc này để làm dấu tích.”
Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu khẳng định, trong luật quốc tế phân tích, đã có nhiều hoạt động của Nhà nước được thực hiện để xác lập chủ quyền: lập một đội thủy binh riêng, trợ cấp về tài chính cho nó, khai thác nó, thưởng cho nó, quyết định xây dựng các công trình xây dựng trên lãnh thổ, cắm mốc chủ quyền,vv… Đó là những bằng chứng của chủ quyền theo đúng các quy tắc của luật pháp quốc tế áp dụng vào thời điểm đó: “Các triều đình phong kiến Việt Nam có giấy chứng thực chủ quyền từ thế kỷ XVI, đặc biệt là trong thế kỷ XVIII. Họ đã tổ chức quản lý các quần đảo này thông qua các đội tàu biển. Theo mùa, các đội tàu này đến các đảo để khai thác tài nguyên thiên nhiên và của cải từ xác các con tàu đắm trôi dạt vào. Họ còn dùng nhiều biện pháp như trồng cây để bảo đảm cho các vùng đó bớt nguy hiểm hơn cho các tàu bè qua lại. Người ta đã tìm thấy bằng chứng trong chiếu chỉ của vua Minh Mạng về việc này.
Trong luật quốc tế, đó là những bằng chứng của chủ quyền.”

GS. André Menras, Chủ tịch Hiệp hội Phát triển và Trao đổi Sư phạm ở miền Nam nước Pháp khẳng định, ở thời kỳ đó, ngoài Việt Nam thì không một quốc gia nào, kể cả Trung Quốc thực thi chủ quyền ở các quần đảo này: “Tôi đã nghiên cứu rất rõ về lịch sử của Hoàng Sa và Trường Sa thì Việt Nam đã thường xuyên có mặt ở Hoàng Sa. Đội Hoàng Sa hàng năm đi làm nhiệm vụ vừa kinh tế vừa bảo vệ chủ quyền trên quần đảo đó. Trong khi đó, không có một nước nào ra Hoàng Sa, kể cả Trung Quốc. Như vậy, hồ sơ của Việt Nam rất chặt chẽ. Theo những quy định trong Công ước Luật biển năm 1982 thì đó là chủ quyền của Việt Nam.”
Tuy nhiên, có một vấn đề đặt ra là: khi xác lập chủ quyền của mình trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam có bị một nước nào phản bác và chống đối hay không? Vì trong công pháp quốc tế thì chủ quyền trên một vùng đất sẽ phải bị xét lại nếu khi vừa xác lập đã bị một hay nhiều nước phản đối.
Như đã phân tích trong phần trước của loạt bài này, cho đến đầu thế kỷ XVII, các tài liệu của Trung Quốc không cho phép xác định nước này đã xác lập chủ quyền lãnh thổ đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Vậy thời kỳ sau đó thì sao?
Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu khẳng định: “Mãi về sau này, Trung Quốc mới có yêu sách về chủ quyền đối với các quần đảo. Đối với Hoàng Sa, Trung Quốc có yêu sách về chủ quyền bắt đầu từ năm 1909. Còn đối với Trường Sa là sau Chiến tranh thế giới thứ hai.”
Trong tất cả các tài liệu của Trung Quốc đều nhắc rằng, các ngư dân nước này đã đến các đảo này hàng ngàn năm nay nhằm chứng minh rằng nhân dân nước này đã “phát hiện” và “khai phá kinh doanh”. Nhưng đó chỉ là những hành vi cá nhân, không có đặc quyền, không phù hợp với một sự chiếm hữu hay ý định khẳng định chủ quyền. Việc chiếm cứ của cá nhân không thể là hành động nhân danh chính phủ của họ, không thể tạo thành một sự chiếm hữu. Hơn nữa, trong cùng thời kỳ này, chính ngư dân Việt Nam cũng hay lui tới các quần đảo đó.
Trên thực tế, việc chiếm hữu và khai thác của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo này không bao giờ gặp phải sự phản đối của một quốc gia nào khác kể cả Trung Quốc.
Trong các sử liệu Trung Quốc có cả các tài liệu chứng tỏ nước này không hề có một đòi hỏi nào đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ví như Trong Hải lục viết: “Vạn lý Trường Sa là đất nổi giữa biển, dài vài ngàn dặm, là phên dậu của An Nam”. Từ đó ta thấy rằng, Trung Quốc không có các hành vi thực thi chủ quyền mà còn im lặng, đồng tình với sự chiếm hữu của Việt Nam.
(VOV) - Các tài liệu lịch sử đáng tin cậy cho phép kết luận ngay rằng, từ lâu và liên tục trong hàng mấy trăm năm, Nhà nước Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong phần đầu của loạt bài “Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa nhìn từ công pháp quốc tế”, chúng tôi đã đưa ra các dẫn chứng để chúng minh rằng, Việt Nam là quốc gia đầu tiên xác lập chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa.
Có một vấn đề đặt ra là: Việt Nam có tiếp tục làm chủ hai quần đảo này không? Và việc chiếm hữu, khai thác nó của Nhà nước Việt Nam có bao giờ gặp phải sự phản đối của một quốc gia nào khác không?
Các tài liệu lịch sử của Việt Nam rất nhiều, khớp với các tài liệu nước ngoài đáng tin cậy cho phép kết luận ngay rằng, từ lâu và liên tục trong hàng mấy trăm năm, từ triều đại này đến triều đại khác, Nhà nước Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhiều bản đồ, tập địa đồ hay sách địa lý nước ta chỉ rõ, các quần đảo là một bộ phận của nước ta, cụ thể là: Giáp Ngọ Bình Nam Đồ, 1774; Đại Nam Nhất Thống toàn đồ, 1838; Đại Nam Nhất Thống chí, 1882,…
Sự quản lý thật sự các quần đảo cũng xuất hiện trong nhiều tài liệu khác của Việt Nam. Những tài liệu quan trọng nhất có thể kể ra là: Đại Nam thực lục tiền biên, 1884 và Đại Nam thực lục chính biên, 1848; Đại Nam nhất thống chí, 1882,…
TS. Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới của Chính phủ cho biết, một số tài liệu này có những lời phê bằng mực son, bút tích của nhà vua: “Trong kho lưu trữ ở Huế, chúng ta đã tìm được những bút phê của nhà vua trong việc thành lập đội Hoàng Sa, rồi cử đội này ra Hoàng Sa và Trường Sa, với thời gian cụ thể và cả các quyết định phong chức cho các đội trưởng để chỉ huy ra Hoàng Sa và Trường Sa như Phạm Quang Ảnh, Phạm Hữu Nhật,vv… mà hiện nay các tên tuổi đó được ghi nhận ở một số đảo trên quần đảo Hoàng Sa của chúng ta như đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh, Quang Hòa. Chúng ta cũng tìm được các gia phả của các dòng họ ở xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn các văn bản của nhà vua trong việc cử các đinh tráng xung vào đội Hoàng Sa.
Đây chính là bằng chứng pháp lý để nói rằng, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.
Nhà nước phong kiến Việt Nam từ lâu đã tổ chức việc khai thác hai quần đảo này. Các biện pháp này thể hiện chính sách quốc gia chú trọng tới các lợi ích biển.
Trong thế kỷ XVIII, nhà Nguyễn đã thành lập các đội đi biển có tính nhà nước. Tổ chức và hoạt động của chúng được mô tả chi tiết trong cuốn sách của Lê Quý Đôn năm 1776. Các đội này có nhiệm vụ đặc biệt, một số để thu lượm các hải sản tại các đảo gần bờ, số khác để thu lượm các đồ vật từ các tàu bị đắm ở ngoài khơi.
Điều này cũng được mô tả trong Toản tập Thiên nam chí lộ đồ thư từ thế kỷ XVII: “Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa đông đưa 18 chiếc thuyền đến (Bãi Cát Vàng) lấy hoá vật, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn".
Hay trong Đại Nam thực lục tiền biên (1884): "Hồi đầu dựng nước, đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm đến tháng 3 đi thuyền ra đảo, độ ba ngày đêm thì đến, thu lượm hoá vật, đến tháng 8 trở về nộp. Lại có đội Bắc Hải mộ dân ở phường Tứ Chính ở Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, được lệnh đi thuyền ra các vùng Bắc Hải, Côn Lôn thu lượm hoá vật. Đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản".
Trong giai đoạn từ năm 1771 đến năm 1802, lịch sử nước ta được đánh dấu bằng sự đối đầu của các triều đại phong kiến. Khi nhà Nguyễn được khôi phục lại (1802) đến khi ký với Pháp Hiệp ước 1884, các vua nhà Nguyễn ra sức củng cố chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Đại Nam thực lục chính biên kể lại, năm 1815, vua Gia Long cử Phạm Quang Ảnh chỉ huy đội Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để khảo sát và đo đạc đường biển.
Vua Minh Mạng, năm 1833, đã ra chỉ thị cho Bộ Công phái người tới dựng miếu, lập bia, trồng nhiều cây cối ở Hoàng Sa. Chỉ thị viết: “Ngày sau, cây cối to lớn, xanh tốt, người dễ nhận biết, có thể tránh được nhiều mắc cạn.”
Năm 1836, vua Minh Mạng tiếp tục thực hiện làm địa bạ toàn quốc. Đại Nam thực lục chính biên ghi lại như sau: “Phải ghi chép mọi việc, mọi chi tiết và tường trình cho trẫm rõ. Khi thuyền đến một nơi nào, một hòn đảo hay một bãi cát, thuyền trưởng phải đo kĩ chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều sâu, chiều rộng và cả chu vi của hòn đảo hoặc của bãi cát, độ sâu của nước vùng ở xung quanh, dò tìm các bãi đá ngầm, xem đó có nguy hiểm cho tàu bè hay không, khảo sát đất đai, đo đạc và vẽ bản đồ.”
Cùng năm này, vua Minh Mạng sai đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền ra Hoàng Sa đo đạc, vẽ bản đồ và cắm các cọc để đánh dấu những nơi đã kiểm tra. Trên mỗi cọc có ghi dòng chữ: “Năm Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân (1836), thừa hành Hoàng thượng, thủy quân đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật đã ra đây, tại đảo Hoàng Sa để đo đạc địa hình và cắm cọc này để làm dấu tích.”
Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu khẳng định, trong luật quốc tế phân tích, đã có nhiều hoạt động của Nhà nước được thực hiện để xác lập chủ quyền: lập một đội thủy binh riêng, trợ cấp về tài chính cho nó, khai thác nó, thưởng cho nó, quyết định xây dựng các công trình xây dựng trên lãnh thổ, cắm mốc chủ quyền,vv… Đó là những bằng chứng của chủ quyền theo đúng các quy tắc của luật pháp quốc tế áp dụng vào thời điểm đó: “Các triều đình phong kiến Việt Nam có giấy chứng thực chủ quyền từ thế kỷ XVI, đặc biệt là trong thế kỷ XVIII. Họ đã tổ chức quản lý các quần đảo này thông qua các đội tàu biển. Theo mùa, các đội tàu này đến các đảo để khai thác tài nguyên thiên nhiên và của cải từ xác các con tàu đắm trôi dạt vào. Họ còn dùng nhiều biện pháp như trồng cây để bảo đảm cho các vùng đó bớt nguy hiểm hơn cho các tàu bè qua lại. Người ta đã tìm thấy bằng chứng trong chiếu chỉ của vua Minh Mạng về việc này.
Trong luật quốc tế, đó là những bằng chứng của chủ quyền.”

GS. André Menras: "Trước đây, ngoài Việt Nam thì không một quốc gia nào, kể cả Trung Quốc thực thi chủ quyền ở các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" (Ảnh: AFP)
GS. André Menras, Chủ tịch Hiệp hội Phát triển và Trao đổi Sư phạm ở miền Nam nước Pháp khẳng định, ở thời kỳ đó, ngoài Việt Nam thì không một quốc gia nào, kể cả Trung Quốc thực thi chủ quyền ở các quần đảo này: “Tôi đã nghiên cứu rất rõ về lịch sử của Hoàng Sa và Trường Sa thì Việt Nam đã thường xuyên có mặt ở Hoàng Sa. Đội Hoàng Sa hàng năm đi làm nhiệm vụ vừa kinh tế vừa bảo vệ chủ quyền trên quần đảo đó. Trong khi đó, không có một nước nào ra Hoàng Sa, kể cả Trung Quốc. Như vậy, hồ sơ của Việt Nam rất chặt chẽ. Theo những quy định trong Công ước Luật biển năm 1982 thì đó là chủ quyền của Việt Nam.”
Tuy nhiên, có một vấn đề đặt ra là: khi xác lập chủ quyền của mình trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam có bị một nước nào phản bác và chống đối hay không? Vì trong công pháp quốc tế thì chủ quyền trên một vùng đất sẽ phải bị xét lại nếu khi vừa xác lập đã bị một hay nhiều nước phản đối.
Như đã phân tích trong phần trước của loạt bài này, cho đến đầu thế kỷ XVII, các tài liệu của Trung Quốc không cho phép xác định nước này đã xác lập chủ quyền lãnh thổ đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Vậy thời kỳ sau đó thì sao?
Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu khẳng định: “Mãi về sau này, Trung Quốc mới có yêu sách về chủ quyền đối với các quần đảo. Đối với Hoàng Sa, Trung Quốc có yêu sách về chủ quyền bắt đầu từ năm 1909. Còn đối với Trường Sa là sau Chiến tranh thế giới thứ hai.”
Trong tất cả các tài liệu của Trung Quốc đều nhắc rằng, các ngư dân nước này đã đến các đảo này hàng ngàn năm nay nhằm chứng minh rằng nhân dân nước này đã “phát hiện” và “khai phá kinh doanh”. Nhưng đó chỉ là những hành vi cá nhân, không có đặc quyền, không phù hợp với một sự chiếm hữu hay ý định khẳng định chủ quyền. Việc chiếm cứ của cá nhân không thể là hành động nhân danh chính phủ của họ, không thể tạo thành một sự chiếm hữu. Hơn nữa, trong cùng thời kỳ này, chính ngư dân Việt Nam cũng hay lui tới các quần đảo đó.
Trên thực tế, việc chiếm hữu và khai thác của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo này không bao giờ gặp phải sự phản đối của một quốc gia nào khác kể cả Trung Quốc.
Trong các sử liệu Trung Quốc có cả các tài liệu chứng tỏ nước này không hề có một đòi hỏi nào đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ví như Trong Hải lục viết: “Vạn lý Trường Sa là đất nổi giữa biển, dài vài ngàn dặm, là phên dậu của An Nam”. Từ đó ta thấy rằng, Trung Quốc không có các hành vi thực thi chủ quyền mà còn im lặng, đồng tình với sự chiếm hữu của Việt Nam.

Tướng quân đội Pháp Daniel Schaeffer: Việt Nam có những tài liệu khẳng định quyền của mình từ xa xưa không có nghi ngờ gì đối với các đảo Hoàng Sa
Tướng quân đội Pháp Daniel Schaeffer, nguyên tùy viên quân sự của Pháp ở Việt Nam, Trung Quốc và Thái Lan, một chuyên gia về các vấn đề an ninh và quốc phòng ở khu vực Đông Á đưa ra kết luận: “Việt Nam và Trung Quốc đã đưa ra các bằng chứng, tài liệu từ thời phong kiến để chứng minh nước nào là nước đầu tiên có hoạt động ở Hoàng Sa. Bằng chứng của Trung Quốc về chủ quyền Hoàng Sa không thuyết phục. Trong khi đó, Việt Nam có những tài liệu khẳng định quyền của mình từ xa xưa không có nghi ngờ gì đối với các đảo Hoàng Sa.”
Ngoài Trung Quốc, các quốc gia khác có hay không biểu lộ ý định thực thi chủ quyền?
Câu trả lời là, lúc đó, không có một quốc gia nào khác trong vùng đã đưa ra yêu sách. Thực tế ngày nay cũng cho thấy, không một quốc gia nào có ý định đưa ra yêu sách có từ thế kỷ XIX hay trước đó.
Cần biết thêm rằng, năm 1898, trong Hiệp ước Paris giữa Tây Ban Nha và Mỹ chuyển giao Philippines. Như vậy, trước khi có Hiệp ước bảo hộ của Pháp năm 1884, Việt Nam đã thực sự chiếm hữu mà không có cạnh tranh trong nhiều thế kỷ đối với các đảo theo đúng chế độ luật pháp của thời kỳ đó.
Đến đây đặt ra vấn đề củng cố danh nghĩa và nhất là việc duy trì danh nghĩa này liên quan tới tiến triển của luật pháp quốc tế.
Chúng tôi sẽ đề cập nội dung này trong phần tiếp theo.
Lê Phúc-Lê Bình-Thùy Vân-Thu Lan
![]() |
| Một đảo lớn trong quần đảo Hoàng Sa. Trung Quốc đã ngang nhiên xây sân bay trên đảo. (Ảnh: tuoitre.vn) |
(VOV) - Trong tình hình hiện nay, việc xác định chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trên cơ sở luật pháp quốc tế là một yêu cầu cần thiết.
Thời gian gần đây, tình hình Biển Đông ngày càng diễn biến phức tạp do các bên liên quan ở Biển Đông triển khai nhiều hoạt động nhằm khẳng định yêu sách chủ quyền của mình.
Thực tế này cho thấy, muốn khai thác hòa bình các nguồn tài nguyên ở Biển Đông đòi hỏi các vùng biển phải được phân định. Nhưng sự phân định này không thể xảy ra chừng nào vấn đề chủ quyền, một vấn đề tiên quyết vẫn còn để ngỏ. Trong tình hình hiện nay, việc xác định chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trên cơ sở luật pháp quốc tế là một yêu cầu cần thiết.
Loạt bài “Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa nhìn từ công pháp quốc tế” của nhóm phóng viên Lê Phúc, Lê Bình, Thùy Vân và Thu Lan đề cập nội dụng này.
Bài 1: Việt Nam- Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa
Trung Quốc đã trích dẫn nhiều dẫn chứng trong các sách địa lý để chứng minh chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Qua nghiên cứu thấy rằng, đúng là các đảo này đã được ghi nhận và mô tả trong đó nhưng chúng chỉ dừng lại ở việc ghi chép những hiểu biết của người Trung Quốc đương thời về địa lý, lịch sử, phong tục… các nước thuộc khu vực Đông Nam Á và Nam Á và đường hàng hải từ Trung Quốc ra nước ngoài, không có bất kỳ sự ghi chép nào về việc nhân dân Trung Quốc "đến hai quần đảo này hàng hải, sản xuất". Các tác phẩm đó chỉ được xem như các tài liệu chứng minh sự hiểu biết chung các địa điểm chứ không có ý nghĩa đáng kể trong pháp lý, nhờ đó, có thể đặt hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Cụ thể:
Nam Châu dị vật chí của Vạn Chấn (thời Tam Quốc, 220-265) viết dưới triều Hán Vũ Đế là cuốn sách hướng dẫn hằng hải trong Biển Đông nhưng lại rất không chính xác, không thể căn cứ vào đó để xác minh được quần đảo này hay quần đảo khác trong số hai quần đảo ngày nay đang bị tranh chấp.
Phù Nam truyện của Khang Thái viết cùng thời kỳ này ghi nhận rằng, đã gặp trong Trướng Hải các đảo san hô và khẳng định đây là những mô tả về quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, đoạn trích này rất mơ hồ, rất thiếu chính xác, không thể căn cứ vào đó để nói rằng đó chính là Trường Sa.
Các tác phẩm khác như Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi (đời Tống, 1178), Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát (đời Tống, 1225), Đảo di chí lược của Vương Đại Uyên (đời Nguyên, 1349), Đông Tây dương khảo của Trương Nhiếp (1618), Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi (1628), Hải quốc văn kiến lục viết dưới đời Thanh, Hải Lục của Vương Bính Nam (1820), Hải quốc đồ chí của Ngụy Nguyên (1848) và Doanh hoàn chí lược của Bành Ôn Chương (1848),vv… là một tập hợp các tác phẩm liên quan đến các chuyến đi, các chuyến khảo địa lý, sách hằng hải liên quan tới các nước bên ngoài Trung Quốc.

Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam cho rằng, thật khó có thể chấp nhận với các tác giả Trung Quốc khi họ rút ra từ đó kết luận: Hoàng Sa, Trường Sa từ lầu đã là lãnh thổ của Trung Quốc: “Bản đồ cổ của Trung Hoa vẽ về Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ XV ghi rõ địa điểm của Việt Nam là Giao chỉ quốc, nước Giao chỉ và biển thì ghi rõ là Giao chỉ dương, tức là ghi rõ đất liền là Giao chỉ quốc và biển là biển của Giao chỉ.
Hàng trăm bản đồ quốc tế khác cũng đều chỉ rõ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.
Tất cả đều rất thống nhất với nhau.”
Người Trung Quốc còn đưa ra các dẫn chứng khác để chứng minh chủ quyền từ lâu đời của mình đối với hai quần đảo này.
Đó là dưới thời Bắc Tống (thế kỷ thứ X-XII), các cuộc tuần tra quân sự của nước này đã được tổ chức, xuất phát từ Quảng Đông đi tới Hoàng Sa, rồi kết luận rằng "triều đình Bắc Tống đã đặt quần đảo Tây Sa và phạm vi cai quản của mình", "hải quân Trung Quốc đã đi tuần tra đến vùng quần đảo Tây Sa". Tuy nhiên, khi phân tích kỹ dữ liệu này thấy rằng, đó không phải là cuộc tuần tra mà chỉ là chuyến thăm do địa lý cho tới tận Ấn Độ Dương, không minh chứng một sự chiếm hữu nào.
Sự kiện thứ hai là việc Bộ Ngoại giao Trung Quốc dẫn sự kiện đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên ở "Nam Hải" để nói rằng "quần đảo Tây Sa đã nằm trong cương vực Trung Quốc đời Nguyên".
Theo Nguyên Sử, bộ sử chính thức của nhà Nguyên, việc đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên được ghi chép như sau: "Việc đo bóng mặt trời bốn biển ở hai mươi bảy nơi, Phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc". Dưới đầu đề "đo đạc bốn biển", Nguyên Sử chép rõ tên hai mươi bảy nơi đo đạc trong đó có Cao Ly, Thiết Lặc, Biển Hải, Nam Hải.
Từ sự ghi chép trong Nguyên Sử, thấy rõ việc đo đạc thiên văn ở hai mươi bảy nơi không phải là "đo đạc" "toàn quốc" như văn kiện của Bắc Kinh nói mà là "đo đạc bốn biển", cho nên mới có cả một số nơi ngoài "cương vực Trung Quốc" như Cao Ly nay là Triều Tiên, Thiết Lặc nay thuộc vùng Xi-bia của Nga, Nam Hải tức Biển Đông.
Mặt khác, chính Nguyên Sử cũng đã nói rõ "cương vực" Trung Quốc đời Nguyên, phía Nam chỉ đến đảo Hải Nam.
Cuối cùng, người Trung Quốc đưa ra các tài liệu về một cuộc tuần biển được tổ chức trong khoảng các năm 1710-1712 dưới triều nhà Thanh. Ngô Thăng, Phó tướng thủy quân Quảng Đông đã chỉ huy chuyến đi này. Người Trung Quốc khẳng định đã đi qua vùng biển tương ứng với vùng biển của quần đảo Hoàng Sa và kết luận rằng, vùng biển này “lúc đó do hải quân tỉnh Quang Đông phụ trách tuần tiễu”. Tuy nhiên, nếu dõi theo hành trình này trên bản đồ, dễ dàng nhận xét rằng, đó chỉ là một con đường đi vòng quanh đảo Hải Nam chứ không phải là hành trình tới các biển xa. Đoạn văn viết: “Từ Quỳnh Nhai, qua Đồng Cổ, Thất Châu Dương, Tứ Canh Sa, vòng quanh ba ngàn dặm”. Xin được chú thích cho rõ các địa danh này: Quỳnh Nhai gần thị trấn Hải Khẩu ngày nay, phía Bắc đảo Hải Nam; Đồng Cổ ở mỏm Đông Bắc đảo Hải Nam; Thất Châu Dương là vùng biển có 7 hòn đảo gọi là Thất Châu nằm ở phía Đông đảo Hải Nam; Tứ Canh Sa là bãi cát ở phái Tây Đảo Hải Nam.
Quan trọng hơn, ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho rằng, những tài liệu do phía Trung Quốc đưa ra không có tính pháp lý: “Thời xưa, Trung Quốc có những nhà du hành, hằng hải, những thương thuyền, họ đi giao thiệp về chuyện buôn bán thì trong quá trình đi, họ nhìn thấy những vùng đảo, ghi chép thì đó là dạng sách du ký. Đó là những tài liệu không có tính pháp lý. Trung Quốc thường dựa vào các sách đó để nói rằng, nước này đã từng biết đến đảo này, chứ không phải tài liệu chính thống của Trung Quốc. Việc xác lập chủ quyền thì những điều được biên chép phải nằm trong trong chính sử hoặc trong sách mà bây giờ mình gọi địa chí, Trung Quốc gọi là phương chí-đó là những phương tiện được Nhà nước thừa nhận..”
Rõ ràng, Trung Quốc không phải là quốc gia đầu tiên kiểm soát thực sự các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vì nó thiếu hẳn các yêu cầu mà luật quốc tế thời đó đòi hỏi.
Cần biết thêm rằng, từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ XVII đã có sự phân biệt rất rõ ràng giữa phát hiện thăm dò (discover) và phát hiện chiếm hữu (to find). Năm 1523, Vua Charles V đã nhắc nhở Đại sứ của mình, ông Juan de Zunigo rằng, một lãnh thổ mà các tàu thuyền của Vương quốc Bồ Đào Nha gặp trên đường đi thì không thể được coi là đã mang lại cho họ một danh nghĩa trên lãnh thổ đó vì nó thiếu một hành vi chiếm hữu.
Các tham vọng của Trung Quốc còn mâu thuẫn bởi chính các nguồn tư liệu của nước này. Theo đó, có nhiều tại liệu địa lý cổ mô tả và nói rõ lãnh thổ của nước này có điểm tận cùng ở phía Nam là đảo Hải Nam. Trong đó, đáng chú ý là cuốn địa chí phủ Quỳnh Châu cũng như cuốn địa chí tỉnh Quảng Đông năm 1731. Điều này cũng được ghi trong Hoàng triều nhất thống Dư địa tổng đồ, phát hành năm 1894. Ngoài ra, quyển sách “Trung Quốc Địa lý học giáo khoa thư”, phát hành năm 1906 nêu ở trang 241 rằng: “điểm cực Nam của Trung Quốc là bờ biển Nhai Châu đảo Quỳnh Châu, ở vĩ tuyến 18o13’ Bắc.”
Ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho biết: “Từ đời Hán đến đời Thanh đều có những bộ chính sử của triều đại, các mục địa lý chí nhưng chưa từng biên chép gì về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là điểm để người ta nhận ra rằng, Trung Quốc chưa từng xem nó thuộc về phần đất của họ. Các phần địa lý chí đều có mục xác nhận đơn vị hành chính nước này đến huyện Nhai, phủ Quỳnh Châu, tức là đảo Hải Nam.”
Qua việc xem xét kỹ các tư liệu do người Trung Quốc đưa ra, bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận: người Trung Quốc cách đây khá lâu đã biết ở Biển Đông có nhiều đảo mọc rải rác nhưng chúng không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, khai phá, khai thác và quản lý hai quần đảo này.
Với bao công sức tìm tòi, lắp ghép, xây dựng lý lẽ trong mấy chục năm qua, Trung Quốc vẫn không chứng minh được rằng nước này đã chiếm hữu các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ bao giờ, đã thực hiện "chủ quyền" đó ra sao. Đó là một việc mà họ không bao giờ có thể làm được. Vì lý do đơn giản là: Từ trước tới nay, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa mà nhà cầm quyền Trung Quốc gọi là "Tây Sa" và "Nam Sa" chưa bao giờ là lãnh thổ Trung Quốc.
Trong khi đó, các tài liệu của Việt Nam cho thấy, Việt Nam không chỉ có sự hiểu biết lâu đời đến hai quần đảo này mà còn chiếm hữu thực sự chúng ít nhất từ thế kỷ XVII, là nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền trên các quần đảo này.
Nhiều sách địa lý và bản đồ cổ của Việt Nam ghi chép rõ Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lý Trường Sa từ lâu đã là lãnh thổ Việt Nam.
Toàn tập Thiên Nam từ chí lộ đồ thư, được soạn vẽ vào thế kỷ XVII, ghi rõ trong lời chú giải bản đồ vùng Phủ Quảng Ngãi, xứ Quảng Nam: "giữa biển có một bãi cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng", "Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa Đông đưa mười tám chiếc thuyền đến lấy hoá vật, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn".
Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam chỉ rõ: “Các hải đảo của Việt Nam như Trường Sa, Hoàng Sa được vẽ từ năm 1490 trong Hồng Đức bản đồ. Sau này, nhà Nguyễn (1838) vẽ bản đồ trong Đại nam nhất thống toàn đồ cũng chỉ rõ, ở bên cạnh, gần miền Trung là quần đảo Hoàng Sa, phí dưới ghi là Vạn Lý Trường Sa.”
Chứng cứ kế tiếp xác lập rõ ràng hơn chủ quyền của Việt Nam là bộ sách Phủ Biên tạp lục, cuốn sách của nhà bác học Lê Quý Đôn viết về lịch sử, địa lý, hành chính xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn (1558-1775) khi ông được triều bổ nhiệm phục vụ tại miền Nam, chép rõ đảo Đại Trường Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa) thuộc phủ Quảng Ngãi. Đáng chú ý, bộ sách này còn nêu rõ, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức việc khai thác hai quần đảo đó với tư cách một quốc gia làm chủ.
Lê Quý Đôn viết: “Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền tiểu câu ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến các đảo ấy rồi ở lại đó. Tha hồ kiếm lượm, bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu, như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, vòng bạc, đồ đồng, thiếc khối, chì đen, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên cùng là kiếm lượm mai đồi mồi, mai hải ba, hải sâm, hột ốc hoa, rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp. Cân và định hạng xong mới cho đem bán riêng các thứ ốc hoa, hải ba, hải sâm, rỗi lĩnh bằng trở về.
Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền tiểu câu ra các xứ Bắc Hải, Cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm hoá vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản".
Lê Quý Đôn còn ghi lại những sự kiện lịch sử xảy ra trước đó, như một số trận đánh giữa hạm đội Hà Lan với thủy binh nhà Nguyễn. Các sự kiện này chứng tỏ, thời ấy, nước ta đã rất chú ý tới việc kiểm soát trên biển.
Rõ ràng, các tư liệu của Việt Nam cho thấy, Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo này ít ra từ thế kỷ XVII khi nó chưa thuộc chủ quyền của bất cứ quốc gia nào.
Lê Phúc-Lê Bình-Thùy Vân-Thu Lan
Thời gian gần đây, tình hình Biển Đông ngày càng diễn biến phức tạp do các bên liên quan ở Biển Đông triển khai nhiều hoạt động nhằm khẳng định yêu sách chủ quyền của mình.
Thực tế này cho thấy, muốn khai thác hòa bình các nguồn tài nguyên ở Biển Đông đòi hỏi các vùng biển phải được phân định. Nhưng sự phân định này không thể xảy ra chừng nào vấn đề chủ quyền, một vấn đề tiên quyết vẫn còn để ngỏ. Trong tình hình hiện nay, việc xác định chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trên cơ sở luật pháp quốc tế là một yêu cầu cần thiết.
Loạt bài “Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa nhìn từ công pháp quốc tế” của nhóm phóng viên Lê Phúc, Lê Bình, Thùy Vân và Thu Lan đề cập nội dụng này.
Bài 1: Việt Nam- Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa
Trung Quốc đã trích dẫn nhiều dẫn chứng trong các sách địa lý để chứng minh chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Qua nghiên cứu thấy rằng, đúng là các đảo này đã được ghi nhận và mô tả trong đó nhưng chúng chỉ dừng lại ở việc ghi chép những hiểu biết của người Trung Quốc đương thời về địa lý, lịch sử, phong tục… các nước thuộc khu vực Đông Nam Á và Nam Á và đường hàng hải từ Trung Quốc ra nước ngoài, không có bất kỳ sự ghi chép nào về việc nhân dân Trung Quốc "đến hai quần đảo này hàng hải, sản xuất". Các tác phẩm đó chỉ được xem như các tài liệu chứng minh sự hiểu biết chung các địa điểm chứ không có ý nghĩa đáng kể trong pháp lý, nhờ đó, có thể đặt hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Cụ thể:
Nam Châu dị vật chí của Vạn Chấn (thời Tam Quốc, 220-265) viết dưới triều Hán Vũ Đế là cuốn sách hướng dẫn hằng hải trong Biển Đông nhưng lại rất không chính xác, không thể căn cứ vào đó để xác minh được quần đảo này hay quần đảo khác trong số hai quần đảo ngày nay đang bị tranh chấp.
Phù Nam truyện của Khang Thái viết cùng thời kỳ này ghi nhận rằng, đã gặp trong Trướng Hải các đảo san hô và khẳng định đây là những mô tả về quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, đoạn trích này rất mơ hồ, rất thiếu chính xác, không thể căn cứ vào đó để nói rằng đó chính là Trường Sa.
Các tác phẩm khác như Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi (đời Tống, 1178), Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát (đời Tống, 1225), Đảo di chí lược của Vương Đại Uyên (đời Nguyên, 1349), Đông Tây dương khảo của Trương Nhiếp (1618), Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi (1628), Hải quốc văn kiến lục viết dưới đời Thanh, Hải Lục của Vương Bính Nam (1820), Hải quốc đồ chí của Ngụy Nguyên (1848) và Doanh hoàn chí lược của Bành Ôn Chương (1848),vv… là một tập hợp các tác phẩm liên quan đến các chuyến đi, các chuyến khảo địa lý, sách hằng hải liên quan tới các nước bên ngoài Trung Quốc.

Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam
Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam cho rằng, thật khó có thể chấp nhận với các tác giả Trung Quốc khi họ rút ra từ đó kết luận: Hoàng Sa, Trường Sa từ lầu đã là lãnh thổ của Trung Quốc: “Bản đồ cổ của Trung Hoa vẽ về Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ XV ghi rõ địa điểm của Việt Nam là Giao chỉ quốc, nước Giao chỉ và biển thì ghi rõ là Giao chỉ dương, tức là ghi rõ đất liền là Giao chỉ quốc và biển là biển của Giao chỉ.
Hàng trăm bản đồ quốc tế khác cũng đều chỉ rõ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.
Tất cả đều rất thống nhất với nhau.”
Người Trung Quốc còn đưa ra các dẫn chứng khác để chứng minh chủ quyền từ lâu đời của mình đối với hai quần đảo này.
Đó là dưới thời Bắc Tống (thế kỷ thứ X-XII), các cuộc tuần tra quân sự của nước này đã được tổ chức, xuất phát từ Quảng Đông đi tới Hoàng Sa, rồi kết luận rằng "triều đình Bắc Tống đã đặt quần đảo Tây Sa và phạm vi cai quản của mình", "hải quân Trung Quốc đã đi tuần tra đến vùng quần đảo Tây Sa". Tuy nhiên, khi phân tích kỹ dữ liệu này thấy rằng, đó không phải là cuộc tuần tra mà chỉ là chuyến thăm do địa lý cho tới tận Ấn Độ Dương, không minh chứng một sự chiếm hữu nào.
Sự kiện thứ hai là việc Bộ Ngoại giao Trung Quốc dẫn sự kiện đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên ở "Nam Hải" để nói rằng "quần đảo Tây Sa đã nằm trong cương vực Trung Quốc đời Nguyên".
Theo Nguyên Sử, bộ sử chính thức của nhà Nguyên, việc đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên được ghi chép như sau: "Việc đo bóng mặt trời bốn biển ở hai mươi bảy nơi, Phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc". Dưới đầu đề "đo đạc bốn biển", Nguyên Sử chép rõ tên hai mươi bảy nơi đo đạc trong đó có Cao Ly, Thiết Lặc, Biển Hải, Nam Hải.
Từ sự ghi chép trong Nguyên Sử, thấy rõ việc đo đạc thiên văn ở hai mươi bảy nơi không phải là "đo đạc" "toàn quốc" như văn kiện của Bắc Kinh nói mà là "đo đạc bốn biển", cho nên mới có cả một số nơi ngoài "cương vực Trung Quốc" như Cao Ly nay là Triều Tiên, Thiết Lặc nay thuộc vùng Xi-bia của Nga, Nam Hải tức Biển Đông.
Mặt khác, chính Nguyên Sử cũng đã nói rõ "cương vực" Trung Quốc đời Nguyên, phía Nam chỉ đến đảo Hải Nam.
Cuối cùng, người Trung Quốc đưa ra các tài liệu về một cuộc tuần biển được tổ chức trong khoảng các năm 1710-1712 dưới triều nhà Thanh. Ngô Thăng, Phó tướng thủy quân Quảng Đông đã chỉ huy chuyến đi này. Người Trung Quốc khẳng định đã đi qua vùng biển tương ứng với vùng biển của quần đảo Hoàng Sa và kết luận rằng, vùng biển này “lúc đó do hải quân tỉnh Quang Đông phụ trách tuần tiễu”. Tuy nhiên, nếu dõi theo hành trình này trên bản đồ, dễ dàng nhận xét rằng, đó chỉ là một con đường đi vòng quanh đảo Hải Nam chứ không phải là hành trình tới các biển xa. Đoạn văn viết: “Từ Quỳnh Nhai, qua Đồng Cổ, Thất Châu Dương, Tứ Canh Sa, vòng quanh ba ngàn dặm”. Xin được chú thích cho rõ các địa danh này: Quỳnh Nhai gần thị trấn Hải Khẩu ngày nay, phía Bắc đảo Hải Nam; Đồng Cổ ở mỏm Đông Bắc đảo Hải Nam; Thất Châu Dương là vùng biển có 7 hòn đảo gọi là Thất Châu nằm ở phía Đông đảo Hải Nam; Tứ Canh Sa là bãi cát ở phái Tây Đảo Hải Nam.
Quan trọng hơn, ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho rằng, những tài liệu do phía Trung Quốc đưa ra không có tính pháp lý: “Thời xưa, Trung Quốc có những nhà du hành, hằng hải, những thương thuyền, họ đi giao thiệp về chuyện buôn bán thì trong quá trình đi, họ nhìn thấy những vùng đảo, ghi chép thì đó là dạng sách du ký. Đó là những tài liệu không có tính pháp lý. Trung Quốc thường dựa vào các sách đó để nói rằng, nước này đã từng biết đến đảo này, chứ không phải tài liệu chính thống của Trung Quốc. Việc xác lập chủ quyền thì những điều được biên chép phải nằm trong trong chính sử hoặc trong sách mà bây giờ mình gọi địa chí, Trung Quốc gọi là phương chí-đó là những phương tiện được Nhà nước thừa nhận..”
Rõ ràng, Trung Quốc không phải là quốc gia đầu tiên kiểm soát thực sự các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vì nó thiếu hẳn các yêu cầu mà luật quốc tế thời đó đòi hỏi.
Cần biết thêm rằng, từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ XVII đã có sự phân biệt rất rõ ràng giữa phát hiện thăm dò (discover) và phát hiện chiếm hữu (to find). Năm 1523, Vua Charles V đã nhắc nhở Đại sứ của mình, ông Juan de Zunigo rằng, một lãnh thổ mà các tàu thuyền của Vương quốc Bồ Đào Nha gặp trên đường đi thì không thể được coi là đã mang lại cho họ một danh nghĩa trên lãnh thổ đó vì nó thiếu một hành vi chiếm hữu.
Các tham vọng của Trung Quốc còn mâu thuẫn bởi chính các nguồn tư liệu của nước này. Theo đó, có nhiều tại liệu địa lý cổ mô tả và nói rõ lãnh thổ của nước này có điểm tận cùng ở phía Nam là đảo Hải Nam. Trong đó, đáng chú ý là cuốn địa chí phủ Quỳnh Châu cũng như cuốn địa chí tỉnh Quảng Đông năm 1731. Điều này cũng được ghi trong Hoàng triều nhất thống Dư địa tổng đồ, phát hành năm 1894. Ngoài ra, quyển sách “Trung Quốc Địa lý học giáo khoa thư”, phát hành năm 1906 nêu ở trang 241 rằng: “điểm cực Nam của Trung Quốc là bờ biển Nhai Châu đảo Quỳnh Châu, ở vĩ tuyến 18o13’ Bắc.”
Ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho biết: “Từ đời Hán đến đời Thanh đều có những bộ chính sử của triều đại, các mục địa lý chí nhưng chưa từng biên chép gì về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là điểm để người ta nhận ra rằng, Trung Quốc chưa từng xem nó thuộc về phần đất của họ. Các phần địa lý chí đều có mục xác nhận đơn vị hành chính nước này đến huyện Nhai, phủ Quỳnh Châu, tức là đảo Hải Nam.”
Qua việc xem xét kỹ các tư liệu do người Trung Quốc đưa ra, bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận: người Trung Quốc cách đây khá lâu đã biết ở Biển Đông có nhiều đảo mọc rải rác nhưng chúng không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, khai phá, khai thác và quản lý hai quần đảo này.
Với bao công sức tìm tòi, lắp ghép, xây dựng lý lẽ trong mấy chục năm qua, Trung Quốc vẫn không chứng minh được rằng nước này đã chiếm hữu các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ bao giờ, đã thực hiện "chủ quyền" đó ra sao. Đó là một việc mà họ không bao giờ có thể làm được. Vì lý do đơn giản là: Từ trước tới nay, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa mà nhà cầm quyền Trung Quốc gọi là "Tây Sa" và "Nam Sa" chưa bao giờ là lãnh thổ Trung Quốc.
Trong khi đó, các tài liệu của Việt Nam cho thấy, Việt Nam không chỉ có sự hiểu biết lâu đời đến hai quần đảo này mà còn chiếm hữu thực sự chúng ít nhất từ thế kỷ XVII, là nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền trên các quần đảo này.
Nhiều sách địa lý và bản đồ cổ của Việt Nam ghi chép rõ Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lý Trường Sa từ lâu đã là lãnh thổ Việt Nam.
Toàn tập Thiên Nam từ chí lộ đồ thư, được soạn vẽ vào thế kỷ XVII, ghi rõ trong lời chú giải bản đồ vùng Phủ Quảng Ngãi, xứ Quảng Nam: "giữa biển có một bãi cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng", "Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa Đông đưa mười tám chiếc thuyền đến lấy hoá vật, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn".
Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam chỉ rõ: “Các hải đảo của Việt Nam như Trường Sa, Hoàng Sa được vẽ từ năm 1490 trong Hồng Đức bản đồ. Sau này, nhà Nguyễn (1838) vẽ bản đồ trong Đại nam nhất thống toàn đồ cũng chỉ rõ, ở bên cạnh, gần miền Trung là quần đảo Hoàng Sa, phí dưới ghi là Vạn Lý Trường Sa.”
Chứng cứ kế tiếp xác lập rõ ràng hơn chủ quyền của Việt Nam là bộ sách Phủ Biên tạp lục, cuốn sách của nhà bác học Lê Quý Đôn viết về lịch sử, địa lý, hành chính xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn (1558-1775) khi ông được triều bổ nhiệm phục vụ tại miền Nam, chép rõ đảo Đại Trường Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa) thuộc phủ Quảng Ngãi. Đáng chú ý, bộ sách này còn nêu rõ, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức việc khai thác hai quần đảo đó với tư cách một quốc gia làm chủ.
Lê Quý Đôn viết: “Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền tiểu câu ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến các đảo ấy rồi ở lại đó. Tha hồ kiếm lượm, bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu, như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, vòng bạc, đồ đồng, thiếc khối, chì đen, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên cùng là kiếm lượm mai đồi mồi, mai hải ba, hải sâm, hột ốc hoa, rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp. Cân và định hạng xong mới cho đem bán riêng các thứ ốc hoa, hải ba, hải sâm, rỗi lĩnh bằng trở về.
Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền tiểu câu ra các xứ Bắc Hải, Cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm hoá vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản".
Lê Quý Đôn còn ghi lại những sự kiện lịch sử xảy ra trước đó, như một số trận đánh giữa hạm đội Hà Lan với thủy binh nhà Nguyễn. Các sự kiện này chứng tỏ, thời ấy, nước ta đã rất chú ý tới việc kiểm soát trên biển.
Rõ ràng, các tư liệu của Việt Nam cho thấy, Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo này ít ra từ thế kỷ XVII khi nó chưa thuộc chủ quyền của bất cứ quốc gia nào.
Lê Phúc-Lê Bình-Thùy Vân-Thu Lan
(Còn tiếp)
![]() |
| Hạm trưởng Ngụy Văn Thà người đã hi sinh trong trận hải chiến tại Hoàng Sa. (Ảnh: Danlambao) |
Phỏng vấn bà quả phụ Ngụy Văn Thà, hạm trưởng hạm Nhật Tảo, người tự trận tại Hoàng Sa năm 1974.
Đã 38 năm kể từ ngày xảy ra trận hải chiến Hoàng Sa, trong đó 58 thủy thủ Việt Nam Cộng hòa tử nạn.
Ngày 19/1/1974, Trung Quốc chính thức chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa sau trận chiến đẫm máu với hải quân chế độ Sài Gòn.
Hạm trưởng Ngụy Văn Thà cùng một số thủy thủ hy sinh theo chiến hạm Nhật Tảo HQ-10 sau khi tàu này bị Trung Quốc bắn chìm.
Hiện bà quả phụ Ngụy Văn Thà đang tạm trú ở TP Hồ Chí Minh, mong chờ tới ngày được về căn nhà mới để có chỗ lập bàn thờ chồng.
![]() |
| Trong trận hải chiến Hoàng Sa, 60 chiến sỹ VNCH tử nạn (Ảnh: BBC) |
BBC - Câu hỏi về việc vinh danh các chiến sỹ Việt Nam Cộng hòa hy sinh tại Hoàng Sa lại nổi lên nhân ngày 38 năm quần đảo này vào tay Trung Quốc.
Đúng 38 năm trước, 58 lính hải quân Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa kéo dài từ 17/1-19/1, nhưng không bảo vệ được quần đảo này.
Tuy quân số hai bên không khác nhau nhiều, nhưng các chiến hạm của Trung Quốc tối tân hơn hẳn của Việt Nam Cộng hòa.
Hạm đội 7 của hải quân Hoa Kỳ đóng gần đó đã không có sự trợ giúp nào, ngay cả khi nghe cầu cứu. Những người chỉ huy hải quân VNCH thời đó tin rằng Trung Quốc đã nổ súng giao tranh vì biết rằng Mỹ sẽ không can dự.
Các chiến hạm của VNCH tham gia hải chiến Hoàng Sa bao gồm tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10), tuần dương hạmTrần Bình Trọng (HQ-5) và khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4).
Thủy thủ đoàn trên hộ tống hạm Nhật Tảo do hạm trưởng Ngụy Văn Thà chỉ huy đã bị thương vong nhiều nhất. Bản thân ông Ngụy Văn Thà hy sinh theo tàu khi tàu này bị bắn chìm.
Những năm gần đây, trong nỗ lực hòa giải dân tộc đã có kêu gọi nhà nước Việt Nam vinh danh các chiến sỹ tham gia hải chiến Hoàng Sa.
Đúng 38 năm trước, 58 lính hải quân Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa kéo dài từ 17/1-19/1, nhưng không bảo vệ được quần đảo này.
Tuy quân số hai bên không khác nhau nhiều, nhưng các chiến hạm của Trung Quốc tối tân hơn hẳn của Việt Nam Cộng hòa.
Hạm đội 7 của hải quân Hoa Kỳ đóng gần đó đã không có sự trợ giúp nào, ngay cả khi nghe cầu cứu. Những người chỉ huy hải quân VNCH thời đó tin rằng Trung Quốc đã nổ súng giao tranh vì biết rằng Mỹ sẽ không can dự.
Các chiến hạm của VNCH tham gia hải chiến Hoàng Sa bao gồm tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10), tuần dương hạmTrần Bình Trọng (HQ-5) và khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4).
Thủy thủ đoàn trên hộ tống hạm Nhật Tảo do hạm trưởng Ngụy Văn Thà chỉ huy đã bị thương vong nhiều nhất. Bản thân ông Ngụy Văn Thà hy sinh theo tàu khi tàu này bị bắn chìm.
Những năm gần đây, trong nỗ lực hòa giải dân tộc đã có kêu gọi nhà nước Việt Nam vinh danh các chiến sỹ tham gia hải chiến Hoàng Sa.
Thay đổi thái độ
Từ giữa năm ngoái, báo chí chính thống trong nước đã có bài nói về trận đánh này, mà họ gọi là trận 'quyết tử của người Việt để bảo vệ chủ quyền dân tộc'.
Báo Đại Đoàn Kết hồi tháng 7/2011 công khai đăng ý kiến kêu gọi "cần vinh danh những người con đất Việt đã hy sinh trong trận hải chiến bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974”.
Thái độ về Hoàng Sa của chính quyền trong nước dường như đã thay đổi mạnh, nhất là khi Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng phát biểu trước Quốc hội về chủ đề từng được coi là nhạy cảm trong quan hệ Việt-Trung này.
Hôm 25/11, ông Dũng nói trước các nhà lập pháp của Việt Nam, rằng "chủ trương của Việt Nam là đàm phán để đòi hỏi chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa".
Ngoài việc chỉ rõ Trung Quốc đã chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực, ông thủ tướng nói thêm Việt Nam cũng chủ trương "đàm phán giải quyết, đòi hỏi chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình".
Phát biểu của ông Nguyễn Tấn Dũng được đánh giá là có 'dịch chuyển về chính sách'.
Thế nhưng, kêu gọi vinh danh những người lính thuộc phía bên kia của 'cuộc chiến chống Mỹ' dường như chưa có diễn biến gì mới.
"Hy sinh vì Tổ quốc"
Bà Huỳnh Thị Sinh, tức bà quả phụ Ngụy Văn Thà, nói không nhận được thông tin gì liên quan tới sự kiện gắn với cái chết của chồng bà.
Từ TP Hồ Chí Minh, bà quả phụ nói với BBC trong nước mắt: "Nếu người ta nghĩ đến công lao của chồng tôi mà có sự vinh danh, thì tôi rất vui mừng".
"Thật sự tôi không biết nói sao, ngoài một điều là ông ấy đã hy sinh để bảo vệ Tổ quốc."
![]() |
| Lễ tưởng niệm tử sỹ Hoàng Sa được tổ chức hàng năm. (Ảnh: BBC) |
Hiện bà Sinh đang phải tá túc "cùng một số chị em" khi nhà cũ của bà bị giải tỏa, trong lúc chờ được chuyển định cư tới một căn nhà mới, nơi bà sẽ dành chỗ để lập bàn thờ cho chồng.
"Ở chỗ này, tôi cũng không có chỗ nào để lập bàn thờ cho ông ấy."
Trong khi đó, ở Hoa Kỳ, lễ tưởng niệm hải chiến Hoàng Sa đã được tổ chức cuối tuần qua.
Báo Người Việt cho hay hôm 15/1, "hàng trăm đồng hương Việt ở Nam California đã tập trung tại Tượng đài Chiến sỹ Việt Mỹ tại Westminster để làm lễ tưởng niệm" những người ngã xuống trong trận chiến 1974.
Báo này viết: "Trước tình trạng bành trướng của Trung Quốc tại Biển Ðông, kỷ niệm trận hải chiến Hoàng Sa nay là một biểu tượng yêu nước, quyết giữ gìn bờ cõi của dân tộc Việt Nam".
Được biết đây là hoạt động hàng năm của cộng đồng Việt Nam ở Nam California.














