• Trang Chủ
  • Giới Thiệu
  • Khát Vọng Tuổi Trẻ
    • Góc Bình Luận
    • Góc Nghiên Cứu
    • Chủ Quyền Thiêng Liêng
  • Điểm Tin
    • Tin Thế Giới
    • Tin Việt Nam
    • Công Lý - Sự Thật
    • Nhân Quyền - Dân Chủ
  • Công Dân Học
    • Trách Nhiệm Công Dân
    • Kỹ Năng Công Dân
    • Giáo Dục
  • Bảo Mật
    • Vượt Tường Lửa
    • Mã Hóa Dữ Liệu
    • Sử Dụng Phần Mềm
  • Tâm và Tầm
    • Lời tâm sự
    • Mơ làm thủ tướng
  • Góc Thư Giãn
    • Chuyện Lạ
    • Truyện Cười
    • Góc Thơ
  • Góc Danh Nhân
    • Nguyễn Trường Tộ
    • Phan Châu Trinh
    • Phan Khôi
You are here : Home »
Hiển thị các bài đăng có nhãn bài viết mới. Hiển thị tất cả bài đăng
vụ cưỡng chế ở huyện tiên lãng nay đã trở thành
câu chuyện mang tầm cỡ Quốc gia.(Ảnh: vietnamnet)
BBC - Hôm nay 19/01, một phái đoàn của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam từ Hà Nội đi Hải Phòng.


Mục đích của họ là làm việc với Ủy ban Nhân dân thành phố Hải Phòng để nghe thông tin về vụ cưỡng chế thu hồi đất của gia đình ông Đoàn Văn Vươn.

Trước đó, hôm 18/01, tại Hà Nội diễn ra cuộc họp của MTTQ Việt Nam bàn riêng về vụ việc ở huyện Tiên Lãng.
Phó Chủ tịch MTTQ Vũ Trọng Kim được dẫn lời nói Mặt trận “sẽ tìm hiểu sự việc và có những ý kiến xác đáng, hợp tình hợp lý”.
Nói chuyện với BBC, luật sư Nguyễn Vĩnh Oánh, Phó trưởng ban Dân chủ và pháp luật của MTTQ Việt Nam, nói phái đoàn sẽ “lắng nghe nhiều bên”.
“Nghe cả dư luận quần chúng. Chúng tôi cũng chờ UBND Hải Phòng trả lời Thủ tướng thế nào, rồi chúng tôi mới có ý kiến.”

Khi được hỏi liệu đoàn có tiếp xúc với gia đình ông Đoàn Văn Vươn, luật sư Nguyễn Vĩnh Oánh cho biết khả năng này được để ngỏ.

“Tùy tình hình. Đầu tiên là gặp MTTQ Hải Phòng, công an, cũng có thể nghe thêm phía gia đình ông Vươn.”

Trong khi đó, ông Phạm Quốc Anh, chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam, cho BBC biết ông đã yêu cầu Hội Luật gia TP.Hải Phòng lên tiếng.

Ông cũng tiết lộ hội của ông đã nhờ cựu Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Hùng Võ, trong tư cách chuyên gia tư vấn Công ty Luật số 5 - Quốc gia, lên tiếng trên mặt báo.

Ông Đặng Hùng Võ là một trong số các nhân vật có tiếng nói mạnh mẽ trên nhiều tờ báo trong nước mấy ngày qua về vụ việc.

Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam nói thêm: “Cái sai của UBND huyện Tiên Lãng rất nghiêm trọng. [Tôi nói với các anh ấy] phải lên tiếng.”

Nhiều ý kiến cho rằng vụ cưỡng chế thu hồi đất ở Tiên Lãng nêu bật nhu cầu sửa lại Luật Đất đai hiện nay.

Nguồn: BBC


Tướng Lê Đức Anh(Ảnh: vietinfo.eu)
BBC - Đại tướng Lê Đức Anh, cựu Chủ tịch nước, nói với truyền thông Việt Nam rằng cần "tiếp tục điều tra" và "làm rõ" về vụ cưỡng chế đất đầu năm 2012 đối với ông Đoàn Văn Vươn ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng.

Vụ cưỡng chế thu hồi đất gây tranh cãi của chính quyền huyện Tiên Lãng hôm 5/1 đã dẫn tới nổ súng, làm một số người trong lực lượng cưỡng chế bị thương.

Bản thân ông Vươn cùng ba người thân đã bị bắt giữ và truy tố tội Giết người.

Sự việc đã thu hút sự chú ý đông đảo của công luận, báo chí và truyền thông trong nước, cũng như sự lên tiếng của nhiều quan chức đã, và đang làm việc trong bộ máy chính quyền.

Hôm thứ Bảy, báo Giáo dục Việt Nam, trích lời Tướng Lê Đức Anh nói với tờ này: “Những ngày vừa qua, tôi theo dõi rất sát sao thông tin về vụ việc bắn người thi hành công vụ ở huyện Tiên Lãng. Có rất nhiều điều khiến tôi phải suy nghĩ".

"Trước tiên phải nói rõ rằng: việc phản ứng một cách tiêu cực bằng cách dùng súng bắn trả lực lượng chức năng là sai trái và cơ quan chức năng phải xử lý nghiêm khắc. Tuy nhiên, còn rất nhiều điều cần phải tiếp tục điều tra làm rõ và trả lời rõ ràng để dư luận hiểu."

Cựu Chủ tịch nước cho rằng có ba vấn đề trong vụ việc: "Thứ nhất, nếu Đoàn Văn Vươn là một người lương thiện được người dân địa phương quý mến, thì lý do gì khiến anh ta phải có hành vi tiêu cực như vậy? Điều này cần khẩn trương làm rõ".

"Thứ hai, tại sao sự việc lại để kéo dài nhiều năm, tại sao có sai sót mà không quản lý được, phải chăng chính quyền địa phương có sự buông lỏng quản lý?"

"Mặt khác, việc cơ quan công an tiến hành cưỡng chế mà không có sự kết hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để nảy sinh phức tạp cũng là một thiếu sót. Nếu mình làm được tốt thì những hành vi chống trả lực lượng chức năng đã không xảy ra”.

Phát biểu của ông Lê Đức Anh, người được cho là vẫn còn uy tín ở trong đảng và quân đội, có vẻ cho thấy dấu hiệu vụ nổ súng của dân chống cưỡng chế của chính quyền địa phương ở Hải Phòng thực sự đang gây băn khoăn, quan ngại trong các cựu lãnh đạo cao cấp của đảng, nhà nước và chính quyền trung ương.

"Phải bồi thường"
Cũng tờ Giáo dục Việt Nam hôm Chủ Nhật 15/1 đăng tải ý kiến của một quan chức khác, ông Đinh Xuân Thảo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp, thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, khẳng định "phải bồi thường nhà cho ông Đoàn Văn Vươn," liên quan tới việc cơ quan chức năng san bằng nhà của ông.

"Trường hợp ở đây là ngôi nhà của người phạm pháp, đó là tài sản của bản thân họ và người thân thì càng không thể dùng biện pháp san bằng và chẳng pháp luật nào cho phép làm việc này. Vì thế, huyện Tiên Lãng phải bồi thường ngôi nhà của ông Đoàn Văn Vươn bị phá hủy. Đồng thời phải làm rõ trách nhiệm người ra quyết định này," Đại biểu Quốc Hội, Tiến sỹ Đinh Xuân Thảo được trích lời nói.
Tiến sỹ Đinh Xuân Thảo nhấn mạnh tệ lạm dụng pháp luật
của nhiều quan chức chính quyền(Ảnh: vnexpress.net)


"Cũng theo quy định của các luật hiện hành, quyền sử dụng của người đầu tư khai khẩn đất, được giao đất sau khi hết 20 năm thì họ tiếp tục được cho thuê. Hoặc người trả tiền thuê một lần còn được thêm nhiều ưu đãi khác như quyền sử dụng giấy chứng nhận để thế chấp ngân hàng…"

"Chính sự nhận thức không đầy đủ về luật pháp hoặc chính quyền nghĩ dân không nắm được luật nên đã làm ẩu, dẫn đến những vụ thu hồi đất sai luật nhằm cho người khác thuê với giá có lợi hơn," người đứng đầu Viện nghiên cứu lập pháp của Quốc hội cho hay.

Trong một diễn biến liên quan tới lãnh đạo xã Vinh Quang và huyện Tiên Lãng, một số trang blog được nhiều người theo dõi trong nước tuần này vừa truyền đi một cáo buộc, kèm theo một số giấy tờ xác nhận của người dân địa phương, theo đó cho rằng Chủ tịch Lê Văn Hiền phải bị "cách chức," "kỷ luật" hay" khai trừ đảng" vì đã "khai man lý lịch đảng" về nhân thân.

Các tài liệu trên blog và nhiều tờ báo mạng trong nước cáo buộc ông Hiền, cũng là anh ruột của Chủ tịch xã Vinh Quang, Lê Văn Liêm, người cùng tổ chức cuộc cưỡng chế khu đất thuê và đất lấn biển liên quan gia đình ông Đoàn Văn Viên, đã không khai báo "bố vợ của ông Hiền" là "việt gian," "phản động" từng cộng tác với "chính quyền thực dân Pháp" và là "đối tương nguy hiểm của cách mạng" trong lý lịch đảng gửi các cấp của ông Hiền.

'Xử lý nghiêm'

Mới đây, hôm 11/1, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký Công điện số 57/CĐ-TTg về việc "Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đợt cao điểm trấn áp tội phạm."

Trong công điện này, ông Dũng biểu dương những thành tích của "toàn lực lượng Công an, Quân đội, các lực lượng khác và quần chúng nhân dân đã tham gia trong đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đặc biệt là tấm gương anh dũng hy sinh của những cán bộ, chiến sỹ trực tiếp làm nhiệm vụ này."

Thủ tướng Dũng yêu cầu Bộ trưởng Công an, chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương "tiếp tục chỉ đạo không để sơ hở thiếu sót, bảo vệ an toàn tính mạng của cán bộ, chiến sỹ công an và các lực lượng tham gia phòng, chống tội phạm;" và đặc biệt là "xử lý nghiêm những trường hợp chống đối người thi hành công vụ."

Không rõ liệu thông điệp này của người đứng đầu Chính phủ sẽ tác động ra sao tới những người có liên quan hiện đang bị giam giữ và truy tố về các tội danh Giết người, hay chống đối người thi hành công vụ trong vụ của ông Đoàn Văn Vươn.

Ông Dũng cũng là đại biểu Quốc hội của Hải Phòng.

Trong một diễn biến liên quan vụ nổ súng ở Hải Phòng, một luật sư thuộc đoàn luật sư Thành phố Hà Nội, ông Trần Vũ Hải đã gửi thư đề nghị Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo Bộ Công an xem xét sai phạm về phía chính quyền trong vụ cưỡng chế gia đình ông Vươn.

"Chúng tôi đề nghị Cơ quan pháp luật Việt Nam khởi tố ngay vụ án hình sự để điều tra làm rõ hành vi hủy hoại tài sản (của gia đình công dân Đoàn Văn Vươn). Cần làm rõ về những người đã ra lệnh, đánh sập ngôi nhà” - luật sư Hải nói trong thư.

"Chính quyền huyện Tiên Lãng đã diễn dịch Luật Đất đai theo ý của họ," ông giải thích thêm về nguyên nhân vụ việc Tiên Lãng với BBC hôm 15/1.
Nguồn: BBC Tiếng Việt
Tâm và Tầm - Mơ Làm Thủ Tướng Chính Phủ (12)

- Có gì đâu Cháu, những câu đại loại như thế tuy không sai nhưng chưa đủ mà phải ghi thêm vào cho cụ thể: “... và để phục vụ lợi ích cho dân nhưng chỉ 3% tổng số”. Hoặc là câu cửa miệng: “dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra”, nghe qua ai mà không thích làm dân nhưng suy cho cùng mới hiểu được “ý đảng”. Câu này phải ghi rõ ràng như sau: Dân biết những điều đảng tiết lộ, dân bàn những gì đảng đồng tình, dân làm những việc đảng cho phép và dân kiểm tra những nơi đảng ra lệnh.

Ngoài ra, nhờ chiêu bài chụp mũ đàn áp và uy hiếp làm cho nhân dân phải sợ hãi, không dám quan tâm nhận xét đến năng lực và đạo đức tồi tàn của đảng nữa. Đặc biệt trên mặt trận tư tưởng, văn hóa đảng đã có chính sách “vô sản hóa” toàn bộ dân tộc. Nghĩa là dồn nhân dân vào các hội đoàn trực thuộc UBMT Tổ quốc, các hội đoàn này do cán bộ của đảng điều hành, đảng lãnh đạo. Một khi nhân dân vô tình tham gia các hội đoàn ấy, tức là họ đã tự luồn cổ mình vào thòng lọng mà đảng đã giăng chờ sẵn. Chính điều này là mẫu chốt của việc cấm tự do lập hội và đảng quyết “không đội trời chung” với các tổ chức tôn giáo nếu không chịu phục tùng, vâng dạ khi đảng gọi.

Một ma trận vòng vo nói lên chức năng của đảng làm cho nhân dân bao đời nay lầm tưởng: nhân dân làm chủ Đất nước, đảng lãnh đạo cán bộ, Cán bộ điều hành các cơ quan, đoàn thể do đảng thành lập và nhân dân tự nguyện hoặc bắt buộc tham gia. Như vậy đảng lãnh đạo cán bộ thực chất là lãnh đạo ông chủ Đất nước. Nếu không có vòng “kim cô” lập lờ núp đằng sau các tổ chức, hội đoàn để khống chế nhân dân, thì khi cán bộ làm sai nhân dân sẽ tự do hỏi tội “ông chủ đảng”.

Kính thưa các đồng chí, tôi trình bày kỹ thế này để các đồng chí phát huy tối đang thế mạnh là: lật lọng, nói một đường làm một nẻo... tránh để nhân dân biết rõ ràng về nỗi nhục của một ông chủ bù nhìn. Nếu để họ biết, họ sẽ đòi lại quyền làm chủ thật sự thông qua việc đấu tranh đòi bầu cử tự do, minh bạch. Chỉ cần chừng ấy thôi là đảng ta mất quyền lợi không còn thế độc tôn. Khi ấy đảng không thể đàn áp vì bầu cử tự do minh bạch là đúng pháp luật và đảng cũng luôn miệng rêu rao từ mấy chục năm nay, chỉ có điều là đảng nói mà không làm. Không ngăn cản được dân, vì giờ họ chỉ yêu cầu đảng phải làm thật và đúng pháp luật mà thôi. Khi đó cán bộ mới đúng thực sự là của dân, dân có quyền nhấc lên và cũng có quyền hạ bệ nếu không giữ đúng cam kết, chứ không phải ngồi cắn răng phụ thuộc vào đảng như mấy chục năm qua.

Đây là điều bí mật cốt lõi nhất mà đảng ta phải luôn luôn ngụy trang và canh phòng cẩn thận nếu muốn giữ "hợp đồng béo bỡ" từ ông chủ đơn sơ này. Bởi việc Đất nước, dân tộc đã có quốc mẫu lo rồi, có bàn thảo hội họp là để trấn an dư luận và thực hiện một số vấn đề mà đối tượng là nhân dân, những việc liên quan đến cán bộ thì ngu gì mà làm cho phức tạp vấn đề.

Đường lối, chính sách là của “người ta” (Trung Quốc) nên mình không thể làm khác được. Các đồng chí hy sinh chịu khó, ngồi yên lặng, giữ trật tự và nhường sân khấu để tôi biểu diễn trong thời gian nhiều nhất là hai nhiệm kỳ. Các đồng chí nên hiểu rõ điều này: chúng ta có thông minh đâu mà sợ nhân dân chê ngu dốt. Nếu để xảy ra điều bất trắc không quản lý được thì cả tôi và các đồng chỉ đều là người thiệt thân mà chỉ có nhân dân được lợi.

Điều cuối cùng tôi xin trao đổi nhỏ cùng với các đồng chí: Đối với con người, nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo là thức ăn cho tâm hồn giống như cơm ăn, áo mặc cho thể xác. Tự do tín ngưỡng là quyền của con người, được tồn tại một cách tất yếu trong xã hội dân chủ thực sự chứ không phải nhờ sự ban ơn của bất kỳ chính quyền nào. Các nước XHCN nói chung và nước ta nói riêng, vì cai trị nhân dân theo đường lối “vô sản hóa”, “chính trị hóa” mọi hoạt động đời sống để dễ bề thâu tóm và sai khiến, nên không thể thả tự do được mặc dầu chúng ta đã ký các công ước với Liên hiệp quốc.

Trên lý thuyết đảng ta theo chủ nghĩa vô thần nhưng thực tế không phải, chúng ta tuyên truyền như thế để ngăn chặn nhân dân và vô hiệu hóa ước muốn của họ gia nhập các tôn giáo lớn ngoài tầm kiểm soát của đảng mà thôi. Ngược lại, đảng ta sẵn sàng dơ hai tay đón nhận bất cứ tổ chức tôn giáo nào hoạt động theo kiểu quốc doanh, trực thuộc UBMT Tổ quốc: “Tự do tôn giáo theo định hướng xã hộ chủ nghĩa”.

Vì vậy đối với nhân dân đảng ta đã tận tụy răn dạy để biến họ trở thành tín đồ khát máu của đảng vô thần, nhưng các đồng chí đảng viên chớ nên tin theo tuyên truyền mà thiệt thân. Hãy siêng năng cúng bái thắp hương, đi chùa lấy qué, xây mồ đắp má cho lớn để mau lên chức. Ra đi đâu, làm việc gì đều phải chọn ngày xem giờ để gặp được “quý nhân đô la” phù trợ…

(Còn nữa) 
Nguồn: Blog Tâm và Tầm
(Ảnh: FB Nhật Ký Yêu Nước)
Nguyễn Quang Duy - Chưa đầy một năm, đảng Cộng sản đã phải liên tiếp triệu tập 4 Hội Nghị với mục đích duy nhất là duy trì sự tồn tại của đảng. Hội Nghị Trung Ương Đảng lần thứ tư công khai bàn đến việc chỉnh đốn đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái tránh sụp đổ.

6 Ngày Họp 400 Lượt Ý Kiến


Sau sáu ngày họp, trong lời mở đầu của bài phát biểu bế mạc, Nguyễn Phú Trọng cho biết “…thành quả của Hội Nghị là đã có gần 400 lượt ý kiến phát biểu ở tổ và Hội trường.” Tính ra trong sáu ngày mỗi Ủy viên Trung Ương mở miệng một đôi lần. Họ nói cái gì thì chỉ có họ biết với nhau.

Ngày 29/12/2011 trên báo Quân Đội Nhân Dân, Lê Khả Phiêu cho biết tình trạng của đảng Cộng sản bấy lâu nay là “tồn tại trong suy thoái”. Ông Phiêu cho biết: “Khi triệu tập hội nghị thì số đông ngồi im, nhưng ra ngoài nói đủ thứ. Bác Hồ từng nói: Trong hội thì im lặng, nhưng ngoài hội thì nhiều mồm. Như thế là rất cá nhân. Thấy cái sai thì lờ đi, cái đúng không bảo vệ. Nếu cứ kéo dài tình trạng này thì Đảng ngày càng hư hỏng và đến một lúc nào đó là mất chế độ.” Té ra ông Hồ cũng không chấp nhận phương cách sinh họat theo kiểu “ đòan kết, đòan kết, đại đòan kết”, các Ủy viên Trung Ương chỉ biết vỗ tay và tung hô “nhất trí”. Và cũng có thể nhờ ý kiến cuả Lê Khả Phiêu mà Hội Nghị lần này mới gặt được kết qủa vô cùng tốt đẹp như Nguyễn Phú Trọng cho biết “…có gần 400 lượt ý kiến …”.

Cùng ngày 29/12/2111, trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ, Lê Khả Phiêu còn cho biết: “Tình trạng chạy chức chạy quyền, kém mà vẫn vào được các vị trí, người giỏi bị gạt ra, đó là cá nhân chủ nghĩa. Thời gian chuẩn bị Đại hội XI, có hôm 11g30 đêm một số anh còn đến nhà tôi, bấm máy lên để nghe thấy đang chạy như thế, nghĩa là hỏng chứ còn gì nữa, cái đó là nguy hiểm lắm…Có ông bí thư tỉnh ủy họp trung ương xong, gần nửa đêm trời lạnh vẫn mang máy đến bật lên cho tôi nghe ai nói thế nào. Tất nhiên không phải trực tiếp các ông ấy mà bộ phận khác chạy, các doanh nghiệp chạy cho.” Qua lời phát biểu nói trên chúng ta thấy được phần nào tình trạng nội bộ và nội dung các phát biểu trong các Hội Nghị. Chúng ta cũng có thể biết được lý do các Ủy Viên Trung Ương quá tiết kiệm lời ăn tiếng nói trong các Hội Nghị.

Bởi vì các Hội Nghị, các Đại Hội là cơ hội để các phe cách trong “Đảng” gặp nhau để mua quyền bán chức, phân chia quyền lực quyền lợi. Họ sử dụng mọi thủ đọan, chụp bắt mọi cơ hội rình mò và tố giác lẫn nhau. Họ biết rõ họat động của các bè phái trong “Đảng” nhưng sợ động rừng nên thoả hiệp để tiếp tục “tồn tại trong suy thoái” dù có phải bán nước buôn dân.

Điều đáng nói là nếu ai có tiền nhiều hơn sẽ mua được nhiều quyền lực hơn, thậm chí mua được cả cái Trung Ương và cả Bộ Chính Trị. Ai cũng biết Trung cộng có dư tiền thừa của để mua tòan bộ giới cầm quyền cộng sản Việt Nam. Nói thế để thấy chuyện cờ Trung cộng chưa chính thức có thêm ngôi sao thứ sáu là do cả hai giới cầm quyền Việt Trung còn sợ một dân tộc thấm nhuần tư tưởng “Thà là Quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”.

Tư Tưởng Quốc Tế “Môi Hở Răng Lạnh”


82 năm trước ông Hồ chí Minh và đảng cộng sản đã mang tư tưởng quốc tế cộng sản về thí nghiệm tại Việt Nam . Lịch sử đảng Cộng sản cho thấy cứ mỗi lần cần kiểm soát tư tưởng và thanh trừng nội bộ, đảng Cộng sản lại tính đến chuyện chỉnh đốn nội bộ.

Cuộc thanh trừng tàn khốc nhất xẩy ra vào những năm đầu 1950 khi ông Hồ chí Minh áp dụng tư tưởng Mao Trạch Đông vào thực tiễn Việt Nam “Chỉnh Quân, Chỉnh Phong và Chỉnh Ðảng”. Cuộc thanh trừng cũng bắt đầu bằng tự phê tự kiểm rồi sau đó mang ra thanh tóan hay thanh trừng. Khi ấy có đến hằng trăm ngàn cán bộ đảng viên bị thanh lọc, nhưng vì là chuyện nội bộ của đảng Cộng sản và so với cuộc Cải Cách Ruộng Đất thì mức độ tàn ác chẳng thấm vào đâu nên ít người trong chúng ta để ý đến.

Trong cuộc chỉnh đảng lần đó những người có tư tưởng quốc gia dân tộc đều bị thanh tóan hay hạ cấp. Những cán bộ cộng sản còn sót lại như Hồ chí Minh đều xem hai đảng Cộng sản Việt Trung như môi và răng, còn cái đầu hay tư tưởng chính là chủ nghĩa Mác – Lê Nin – Stalin – Mao Trạch Đông.

Tư tưởng này vẫn còn tồn tại đến ngày nay, mà bằng chứng rõ ràng nhất là tại Phủ Chủ tịch, Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang chào đón Tập Cận Bình bằng cờ sáu sao. Mặc cho dư luận xôn xao đảng Cộng sản chỉ xem là “sự cố kỹ thuật” và Trung tứơng Nguyễn Trọng Vĩnh là đảng viên lão thành duy nhất không đồng ý, ông đòi đảng Cộng sản phải minh bạch cho dân biết họ muốn gì ?
Thế hệ cầm quyền hiện nay còn xem Trung cộng như chỗ bám cuối cùng. Còn đảng Cộng sản Trung Hoa thì còn đảng Cộng sản Việt Nam . Bởi thế họ không chỉ lệ thuộc vào tư tưởng, mà còn lệ thuộc vào kinh tế, vào chính trị, vào văn hóa, vào giáo dục... và tệ hại nhất là lệ thuộc vào công an và quân đội Trung cộng. Giới cầm quyền cộng sản Việt Nam tự xem Việt Nam là thuộc địa Trung cộng.

Từ bản chất họ xem ngọai bang Trung cộng như đồng chí anh em, xem tư tưởng của ngừơi như cứu cánh. Sai lầm tư tưởng dẫn đến hành động sai trái tội lỗi. Bộ Chính Trị và Trung Ương Đảng Cộng sản quên rằng theo Tầu bán nước mới chính là nguyên nhân sẽ dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng của đảng Cộng sản Việt Nam .

Dâng Cờ Đảng, Cộng Sản Được Gì ?

Các em bé Việt Nam cầm cờ 6 sao (Ảnh: BBC)
Khi Tập Cận Bình đến Việt Nam một chuyện lạ nhưng lại ít được để ý, ông Bình đi đến đâu ta cũng thấy tướng công an cộng sản Lê Hồng Anh tại đó. Ông Anh theo ông Bình sát gót để ông Bình yên tâm vì trước đó ít hôm Phong Trào Tòan Dân Cứu Nước loan báo đón ông bằng cách cho bốc cháy tòa tháp đôi tại Hà Nội. Thực hư chưa rõ nhưng hai đảng Cộng sản Việt – Trung vẫn chỉ ngán cách đánh du kích của người Việt chúng ta.

Còn Nguyễn Tấn Dũng tiếp Tập Cận Bình với khuôn mặt tươi vui. Ông Dũng mặc một bộ đồ, cả đến viền tay áo cũng y như bộ đồ của ông Bình. Chỉ khác là ông Bình đeo một chiếc cà vạt với những chiếc mỏ neo, còn ông Dũng khóat một chiếc cà vạt màu xanh nứơc biển. Thâm độc ở chỗ, nó ám chỉ mỏ neo tàu hải quân Trung cộng đã bỏ neo trên lãnh hải Việt Nam . Khuôn mặt tươi cười của ông Dũng đủ thấy bản lãnh kém cỏi và bản chất bán nước của ông Dũng cùng tập đòan cộng sản Việt Nam .

Có thể ông Dũng tươi cười vì Tập Cận Bình quyết định cho ông vay 300 triệu Mỹ Kim, đủ nuôi tập đòan háu đói “Đảng” vài ngày. Vài hôm sau, Tập Cận Bình lại ký quyết định cho Thái Lan vay 11 tỷ Mỹ Kim. Dũng, Sang, Trọng, Vĩnh, Quang ơi !!! đau chưa ??? dâng cả cờ đảng cho giặc, dâng cả đất nước cho Tầu thế mà trong cơn túng thiếu vẫn chẳng được gì.

Tránh Bàn Vấn Đề Tư Tưởng

Trong Hội Nghị vừa qua Nguyễn Phú Trọng tránh không nhắc đến việc đa số đảng viên cộng sản ngày nay không còn tin vào tư tưởng vào chủ nghĩa Mác – Lê Nin – Stalin – Mao Trạch Đông. Bài viết trước đây “Đảng Cộng Sản Tự Thú Thất Bại” người viết đã sử dụng Phần B khỏan số 6 của bản Dự Thảo Báo Cáo Chính Trị Đại hội Đảng để phân tích lời thú nhận và nỗi khủng hỏang tư tưởng mà giới cầm quyền cộng sản đang phải đương đầu. Phần này đã bị cắt bỏ trong Báo Cáo Chính Thức.

Một cách vắn tắc đảng Cộng sản chính thức tự thú thất bại trong “công tác xây dựng Đảng” vì nền tảng tư tưởng và thực tiễn khách quan không còn lừa dối được các đảng viên. Mọi sai lầm mà đảng Cộng sản mắc phải là vì đã quá tin vào chủ nghĩa Mác Lênin và hệ thống chính trị Sô viết do Stalin tạo ra. Hệ thống này đã sai từ gốc đến ngọn nhưng lại được đảng Cộng sản vay mượn áp dụng vào Việt Nam để xây dựng cái gọi là “xã hội xã hội chủ nghĩa”.

Tư tưởng không còn cũng như mất cái đầu, đảng Cộng sản lộ nguyên hình một “Đảng” cướp. Quan lớn cướp theo kiểu quan lớn, quan nhỏ cướp theo kiểu quan nhỏ. Đại đa số các đảng viên nhận ra họ là nạn nhân của chế độ, họ đều mất hẳn niềm tin vào đảng Cộng sản, họ hết sợ quyền lực của “Đảng” và đang tìm kiếm các tư tưởng các phương cách điều hành quốc gia mới để thay thế guồng máy lỗi thời hiện nay. Như ông Nguyễn Văn An, Cựu Chủ tịch Quốc hội Cộng sản công khai xác nhận: “Đảng đã trở thành lực lượng cản trợ dân chủ, tự do, cản trợ sự phát triển của xã hội.” Xin mời quý vị xem bài “Đảng Cộng Sản Tự Thú Thất Bại” để biết thêm chi tiết.

Đảng Cộng sản nay lại muốn các đảng viên tự phê tự kiểm và như đã nói ở bên trên mọi cuộc thanh trừng đều bắt đầu bằng tự phê tự kiểm rồi sau đó mang ra thanh trừng hay thanh tóan. Không mấy ai còn tin vào phương cách tự phê và tự kiểm nói trên. Ngược lại nhiều dấu hiệu cho thấy thanh trừng bằng bạo lực theo kiểu xã hội đen đang và sẽ xảy ra giữa nhưng bè phái trong đảng Cộng sản.

Nguyễn Tấn Dũng Thông Điệp Đầu Năm


Ngay đầu năm 2012, Nguyễn Tấn Dũng đã cho phổ biến một bài viết với kết luận như sau: "Phải chuyển nhận thức, quyết tâm thành hành động và hành động quyết liệt để vượt qua sức ỳ của quá trình khởi động, đặt tiến trình phát triển của đất nước vào quỹ đạo mới - Quỹ đạo phát triển bền vững" Người đọc sẽ khó tin đây là bài viết của Nguyễn Tấn Dũng hay sẽ thắc mắc Tấn Dũng có hiểu mình đang nói chuyện gì không ?

Không khác gì ông Nguyễn Văn An, Tấn Dũng công khai xác nhận: “Đảng đã trở thành lực lượng cản trợ dân chủ, tự do, cản trợ sự phát triển của xã hội.” Tấn Dũng xác nhận Việt Nam đã và đang trong “quỹ đạo phát triển không bền vững” do “sức ỳ” của guồng máy đảng. Theo bài viết của Tấn Dũng, Việt Nam muốn phát triển phải hòan tòan và triệt để áp dụng kinh tế và chính trị tự do.

Lấy thí dụ vào cuối tháng 12-2011, Nguyễn Phú Trọng ra mặt lo lắng vì sự hình thành các “nhóm lợi ích”. Trong bài viết Tấn Dũng trả lời lo ngại của Trọng như sau “Thể chế kinh tế thị trường cùng với tác động của quá trình mở cửa, hội nhập gắn liền với việc hình thành cấu trúc đa sở hữu và cơ cấu đa chủ thể kinh tế dẫn đến sự hình thành các “nhóm lợi ích”. Về khách quan, các “nhóm lợi ích” này có thể tác động đến quá trình ra quyết định.”
Trong bài viết Nguyễn Tấn Dũng cho biết phương cách để giảm thiểu tác hại do các nhóm lợi ích gây ra như sau: “Công khai minh bạch không những tạo cơ hội bình đẳng trong tiếp cận thông tin, mà quan trọng hơn, thực hiện công khai minh bạch và đề cao trách nhiệm giải trình, tạo điều kiện cho người dân giám sát các quyết định của các cơ quan quản lý, là biện pháp cơ bản để ngăn ngừa tham nhũng và sự tác động của các “nhóm lợi ích” vào quá trình ra quyết định, bảo đảm cho các quyết định theo chuẩn “giá trị chung”, vì lợi ích của đất nước. Công khai minh bạch cũng hạn chế đầu cơ, giảm chi phí kinh doanh và tăng hiệu quả của thị trường. Nói cách khác Nguyễn Tấn Dũng đã công khai nhìn nhận chỉ có Thể Chế Tự Do mới có thể hạn chế được tầm ảnh hửơng của các nhóm lợi ích.

Trên báo Quân Đội Nhân Dân, ngày 29/12/2011, Lê Khả Phiêu còn cho biết: “… nếu suy thoái về tư tưởng chính trị thì sẽ dẫn đến suy thoái cả về kinh tế, xã hội và văn hóa. Như thế là đi chệch hướng, mà ở chúng ta chính là chệch hướng XHCN. Nghĩa là cái “chất” CNXH không được xây dựng cao lên, mà làm tụt đi, mặc dầu kinh tế có thể phát triển…” Ông Phiêu quên rằng nguyên nhân sự nghèo nàn, lạc hậu, văn hóa suy đồi đều xuất phát cái tư tưởng chính trị ông đề cập tới. Nói theo cách chúng ta thường nói là vì tư tưởng bảo thủ và không tưởng “Xã Hội Chủ Nghĩa” của ông Lê Khả Phiêu, của ông Nguyễn Phú Trọng, của ông Trương Tấn Sang… Những người luôn luôn lo sợ sự thay đổi nhất là thay đổi về chính trị. Đó chính là “sức ỳ” mà Nguyễn Tấn Dũng muốn nhắc tới.

Nói thế không có nghĩa là ông Dũng thuộc thành phần tiến bộ, thậm chí ngược lại. Tuy nhiên bài viết của Nguyễn Tấn Dũng là dấu hiệu cho thấy bắt đầu xuất hiện công khai đấu tranh tư tưởng, công khai đòi hỏi phải thay đổi triệt để từ bên trong đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế chúng ta cần sáng suốt xem ai là người bảo thủ, xem việc làm nào là bảo thủ chống lại những những thay đổi chính trị từ bên trong. Có như thế chúng ta mới chủ động trong đánh ra ngòai đánh tạo cơ may giải thể một chế độ tàn bạo và bảo thủ nhất trong lịch sử Việt Nam .

Một bạn đọc góp ý cho bài “Boris Yeltsin Việt Nam - Trương Tấn Sang?” rằng ông Boris Yeltsin khởi đầu cũng chỉ muốn đảng Cộng sản Liên Sô tự thay đổi nhưng càng về sau càng nhận ra "Cộng sản không bao giờ thay đổi. Chúng chỉ có thể bị thay thế". Thêm vào đó nếu không có sự ủng hộ của quân đội và dân chúng có thể cuộc cách mạng ở Liên Sô đã chuyển sang một hướng khác.

Tình hình và hòan cảnh tại Việt Nam khác với Liên Sô (1) đảng Cộng sản Việt Nam lệ thuộc vào đảng Cộng sản Tầu và (2) giới cầm quyền Cộng sản đều trưởng thành trong chiến tranh, tự tin vào bạo lực và vô cùng bảo thủ. Vì thế cuộc cách mạng tại Việt Nam sẽ khác với các cuộc cách mạng đã xẩy ra tại Đông Âu và Liên Sô.

Bất Ổn Chính Trị

Đảng Cộng sản thường tuyên truyền ổn định chính trị để phát triển kinh tế nhằm thu hút đầu tư từ quốc tế. Trên thực tế và càng ngày càng nhiều dấu hiệu cho thấy những tranh chấp chính trị những bạo động xã hội sẽ phơi bày thực trạng chính trị tại Việt Nam .

Mới đầu năm đã có tin Tướng Phan Văn Đông, phó chánh thanh tra Bộ Công an và Thượng tá Lê Văn Thắng, phó chánh thanh tra công an An Giang chết đuối vào lúc từ 5-5h30 sáng ngày 6/1/2012 khi đi tắm biển ở Mũi Né, Phan Thiết. Bản tin cho biết khu vực biển Long Sơn này "nước sâu, dòng chảy xiết, sóng đánh rất mạnh". Cũng theo Bản tin hội nghị nhằm "trang bị, bổ sung, cập nhật những kiến thức cần thiết" cho thanh tra của 63 tỉnh và thành phố ở Việt Nam .

Dư luận đặt nhiều câu hỏi như tại sao một tướng một tá chết cùng lúc ? Tại sao "nước sâu, dòng chảy xiết, sóng đánh rất mạnh" mà lại đi tắm vào sáng sớm ? Tại sao không có người bảo vệ hai vị quan lớn này ? Tại sao cả hai cùng là dân Nam và là vây cách của Tấn Dũng ? … Những câu hỏi đều đưa đến một lập luận cả hai đã bị trấn nước thanh trừng.

Ngày 7/1/2011 lúc 2 giờ đêm môt tiếng nổ lớn tại nhà Giám đốc Công an tỉnh Thái Nguyên Đại tá Nguyễn Như Tuấn. Vụ nổ đã khiến nhà của Đại tá Tuấn bị phá tan khu vực tầng một. Theo tin Đại tá Công An Nguyễn Như Tuấn mới được điều lên làm Giám đốc công an tỉnh Thái Nguyên cách đây vài tháng. Biết đâu đây lại cũng là một cuộc thanh trừng khác của những phe phái bên trong ngành công an cộng sản.

Đến tối ngày 7 tháng 1, lại thêm tin tại thành phố Móng Cái, Quảng Ninh, thiếu tá công an cộng sản Nguyễn Văn Biện và 5 người dân bị thương vì một vụ ném lựu đạn. Hai hung thủ Trần Phước Hưng và Nguyễn Văn Thắng đã bị bắt để điều tra hành vi giết người.

Cùng một thời gian một vụ cướp đất đã dẫn tới nổ súng bắn bị thương 6 công an và bộ đội, trong đó có một thiếu tá công an, thuộc xã Vĩnh Quang, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng. Đây là một vụ cướp trắng công lao khai phá đất hoang đầm lầy của gia đình ông Đoàn Văn Vươn. Vụ án mới chỉ bắt đầu và chưa biết ai sẽ là tội nhân, chỉ thiệt cho 6 công an và bộ đội làm bia đỡ đạn cho bọn tham quan. Vụ án đang gây dư luận phản ảnh tình trạng “Một Là Sống - Hai Là Chết” giữa dân lành và đảng Cộng sản Việt Nam .

Một Là Sống - Hai Là Chết

Miền Bắc vốn đất ít dân đông. Ông cha chúng ta khi xưa một mặt giữ biên thùy phía Bắc không để một tấc đất lọt vào tay giặc Tầu xâm lược. Một mặt tiến về phía Tây và phía Nam để mở mang bờ cõi. Mặt khác ông cha chúng ta cũng tìm mọi cách để lấn biển, biến những bãi sình lầy do phù sa sông Hồng bồi đắp thành ruộng đồng làng xã.

Những đất đai khai phá này thường được triều đình công nhận như đất tư nhân và những người có công khai phá được cư dân con cháu thờ phượng như những thần làng những người có công khai phá. Đến thời cải cách ruộng đất Hồ chí Minh và đảng Cộng sản đã tiêu diệt những người có ruộng đất và gia đình. Đất của những người này bị cướp đi và tình trạng cướp đất vẫn kéo đến ngày nay.

Ông Đoàn Văn Vươn một dân lành theo chân ông cha chấp nhận mọi rủi ro biến 70 mẫu đất hoang đầm lầy thành một cơ sở nuôi thủy sản và vườn cây ăn trái. Công lao của ông đối với đất nước với làng xã to lớn vô cùng. Không may cho ông bọn quan lại cộng sản đã tìm cách cướp đi công lao, biến ông và gia đình thành nhữngngười chống lại chế độ.

Gia đình ông 7 người bị bắt. Công an cộng sản dùng dùi cui đánh đến đổ máu mồm phụ nữ trong gia đình ông. Các con nhỏ trong gia đình thì hoặc bị bắt hoặc không người chăm sóc.

Tin mới cho biết: Chủ tịch huyện Tiên Lãng, Lê Văn Hiền là anh ruột chủ tịch xã Quang Vinh, Lê Văn Liêm. Cả hai quan huyện và quan xã là anh em ruột cùng quyết định cướp đất ông Đoàn Văn Vươn và nhiều hộ dân trong vùng.

Gia đình ông Vươn được diễn đàn BBC phỏng vấn cho biết: “Cả đời bác ấy chỉ tâm huyết vào cái đồng ấy. Bao nhiêu năm mới gây dựng được nên, càng đắp càng nợ nhiều. Bao nhiêu năm nay, chưa giả hết nợ. Tất cả chỉ trông vào cái đồng ấy để sống, để trả nợ. Ngày xưa anh em xây được cái nhà, nhưng tàn tạ rồi. Bác ấy chỉ tâm huyết vào cái đồng, chưa phục vụ được gì cho gia đình cả. Bây giờ nhà nước không đền bù, bác ấy bảo dù có chết cũng phải giữ lấy đồng. Nhưng giữ làm sao được với các quan. Là quan, muốn sao thì dân phải chịu. Quá bức xúc, thôi thì một là chết, hai là sống, cứ ở đấy giữ đồng, chứ bác ấy chẳng nghĩ có mưu đồ gì chống lại quan đâu.”

Tiếng nói của ông Đòan văn Vươn tiêu biểu cho tiếng nói của người dân khi đảng Cộng sản đã đẩy họ đến đường cùng. Nỗi uất ức của dân lành vô tội đã tràn ra “một là chết, hai là sống”. Dân tộc Việt đã nhiều lần tha thứ cho đảng Cộng sản thế nhưng càng tha thứ thì đảng Cộng sản càng lộ rõ bản chất tham tàn cướp bóc, buôn dân, bán nước. Những quả mìn tự chế, những tạc lựu đạn, những phát súng gia đình ông Vươn bắn vào công an bộ đội cộng sản cũng chính là lời khai chiến của một dân tộc bị áp bức đang đứng lên giải thể chế độ cộng sản.

Giờ đã điểm, người có tiếng nói cất tiếng nói, người có viết dùng viết, người có súng dùng súng, người có của góp của, người có công góp công… bằng mọi phương tiện có được, mỗi người trong chúng ta cần quyết tâm “Một là Sống Hai là Chết” liên kết đứng lên dẹp bọn tham quan cộng sản. Mỗi người cần góp một bàn tay để bọn quan lại cộng sản không thể tiếp tục tổ chức những Hội Nghị hay Đại Hội nhằm lừa bịp dư luận trong và ngòai nước.

Năm 2012 sẽ là năm của dân tộc Việt Nam từng bước đứng lên giành lại tự do, dân chủ, bảo vệ lãnh thổ lãnh hải và xây dựng tương lai cho chính mình.

Nguyễn Quang Duy(gởi trực tiếp cho Blog kvtt)

Melbourne, Úc Đại Lợi 12/1/2012
Bạo lực học đường - một vấn nạn của xã hội(Ảnh: báo mới)
KVTT - Gần đây cộng đồng cư dân mạng vẫn xôn xao bàn tán về tên hung thủ máu lạnh tuổi teen Lê Văn Lyện, với 3 tội án “giết người, cướp của, lạm dụng tín nhiệm cướp tài sản” Lê Văn Luyện lãnh án 18 năm tù. Đó là một kết quả đã làm cho thân nhân người bị hại cùng rất nhiều những ai quan tâm đến vụ án phải phấn nộ và uất ức. Nhìn vào xã hội bây giờ liệu sẽ có bao nhiêu Lê Văn Luyện nữa?

Câu hỏi được đặt ra khi tôi nhìn lại những vụ giết người đã xảy ra trước đây và các hung thủ phần nhiều vẫn rơi vào những đối tượng chưa đến tuổi vị thành niên. Với những cách sát hại rất mạn rợ, máu lạnh, không ghê tay. Vào những tháng đầu năm 2011 chỉ trong vòng 3 tháng đã xảy ra 6 vụ giết người mạn rợ của 9x vì nhiều lí do, tháng 6 năm 2011 lại rộ lên với tin tên Nguyễn Duy Quang giết người cướp xe, mới đây sau khi Lê Văn Luyện bị bắt giam thì có một nhóm thiếu niên tự xưng là đàn em Lê Văn Luyện với những việc làm mang tính chất bạo lực. Tất cả những đối tượng và hành vi trên đều rơi vào các đối tượng chưa đến tuổi vị thành niên, và còn rất nhiều những vụ án tương tự đã xảy ra. Vậy ai đã dẫn rất nhiều các bạn trẻ đến bên bờ vực thẳm đó?

1. Gia đình.

Với một nhịp sống như hiện nay điều các bạn trẻ cần nhất vẫn là tình thương của bố mẹ và mái ấm gia đình, những lời khuyên răn dạy dỗ để làm hành trang trong cuộc sống. Nhưng giữa cái bon chen của xã hội ngày nay, những người bố, người mẹ chỉ biết chạy theo lực hút của đồng tiền, quyền lực, danh vọng mà quên mất nghĩa vụ làm bố làm mẹ của mình, bỏ qua sự quan tâm con cái. Vì bận rộn chạy đua với tham vọng của đồng tiền nên dần dần những bữa cơm quây quần truyền thống của các gia đình dần dần cũng biến mất. Cũng không ít những cặp vợ chồng vì ghen tuông đã đánh rơi hạnh phúc gia đình tạo cho con trẻ một vết rạn nứt trong tâm hồn. Tất cả những điều đó sẽ tạo cho những người con trong gia đình sự lạnh nhạt, thiếu thốn tình thương, thiếu nhận thức trong cuộc sống, chán nản và không nhận được sự quan tâm của bố mẹ, các bạn trẻ sẽ thờ ơ với nhiệm vụ học hành của mình mà lao đầu vào các tệ nạn xã hội.

2. Nhà Trường.

Khi đã bị thiếu hụt nền tảng tốt đẹp cần có trong gia đinh thì cứu cánh duy nhất của các bạn trẻ là môi trường giáo dục ở trường lớp, các thầy cô giáo sẽ thay bố mẹ yêu thương và dạy dỗ về lễ nghĩa và văn hóa để bù đắp lại một phần những thiếu thốn của các em, nhưng nền giáo dục ngày nay lại đi ngược với đạo lí đó.

“Cô và mẹ là 2 cô giáo, mẹ và cô ấy 2 mẹ hiền” một câu hát trong bài hát của thiếu nhi mà tuổi thơ tôi cũng đã trải, nhưng nào được đâu, cô giáo nay không như mẹ hiền, thầy không như là người bố. Đa phần những người thầy người cô ngày nay chỉ làm việc trên nền tảng của đồng tiền, rất hiếm những thầy, cô dùng tình yêu thương để dạy dỗ các bạn trẻ. Còn nữa, với những phương pháp dạy logic chỉ dạy cho hết ngày, không quan tâm đến chất lượng học của học sinh đã khiến cho những bạn trẻ đã thiếu tình thương gia đinh, đến trường lại phải gặm nhấm những khoảng thời gian căng thẳng và khô khan ở trên lớp thấy chán nản việc học hành.

còn nhớ lúc tôi là học sinh trung học, tôi thấy ngán ngẩm với cái cảnh cứ mỗi lần lên lớp là các thầy cô giáo lại đi tay không, không tài liệu, không giáo án, mà nếu có giáo án thì cũng là một cuốn giáo án cũ kĩ đã qua sử dụng rất nhiều năm. Điều đó chứng minh rằng chương trình giáo án dạy học của các thầy cô đã được rập khuôn trong đầu, một chương trình giáo án được sử dụng cho nhiều khóa học, không có sự sáng tạo hay đổi mới trong phương pháp dạy, khiến cho học sinh chán nản với các phương pháp dạy cũ kĩ. Thêm vào đó là lịch học chồng chất khiến cho học sinh luôn bị nhồi nhét kiến thức hơn là tiếp thu kiến thức, ngày nay còn có nạn học thêm của các thầy cô giáo tổ chức để kiếm thêm chút lợi nhuận đã tạo điều kiện cho các cậu học sinh có cơ hội lợi dụng vào đó để trốn bố mẹ lao đầu vào game.

3. Xã hội.

Bỏ học, đi học bỏ tiết, lao đầu vào những thú vui để bán thời gian, mua vui cho bản thân và còn nhiều lí do khác, đó là đáp án đầu tiên các bạn trẻ tìm được khi đã thấy chán nản mái trường và gia đình, với sự quản lí không chặt chẽ và sự thờ ơ của bố mẹ đến con cái, chúng sẽ dễ sa đà vào các tệ nạn xã hội. Phần đa các bạn trẻ ngày nay vẫn mê các game hành động, đó chính là thứ vũ khí sắc bén để biến những người thiếu niên hiền lành thành man rợ, những hành động chém giết và những tình tiết trong game sẽ in sâu vào tâm thức của các bạn trẻ tạo nên cho các em một khao khát thực tế, cộng thêm những sự dao du không lành mạnh sẽ đưa các em đến bờ vực thẳm là những người thiếu niên hư đốn và có thể sẽ trở nên máu lạnh và hậu quả sẽ khó lường. Bước ra xã hội khi chưa được trang bị đầy đủ hành trang cần thiết cho cuộc sống sẽ dễ dàng dẫn các bạn trẻ đi sai đường lạc lối.

Các bạn trẻ chưa đến tuổi vị thành niên là những trang giấy trắng, trang giấy trắng đó sẽ được họa một bức họa thật đẹp, hay chỉ là những đường mực loằng ngoằng làm bẩn trang giấy đó là do những người họa sĩ chính là người bố người mẹ, thầy, cô, những người có trách nhiệm... Hơn bao giờ hết các em luôn là những đối tượng ưu tiên hàng đầu cần được dạy dỗ thật tốt và chu đáo.

Có biết bao nhiêu hậu quả đáng tiếc đã xảy ra do thiếu sự quan tâm giáo dục của những người có trách nhiệm với các bạn trẻ. Trường hợp Lê Văn Luyện là một điển hình, nếu cứ tiếp tục một nền tảng giáo dục méo mó như vậy thì sẽ có bao nhiêu Lê Văn Luyện nữa?, sẽ có bao nhiêu vụ sát hại thảm khốc như vậy nữa?

Mong rằng Cái máu lạnh, man rợ của người thiếu niên Lê Văn Luyện sẽ là hồi chuông thức tỉnh những người bố người mẹ thiếu tình thương và sự quan tâm đến con cái, thức tỉnh một nền giáo dục trong nước đang ngày một xuống dốc bởi đặt trên nền tảng của đồng tiền. để những điều đáng tiếc như vậy sẽ không xảy ra.

Chưn Đất
Đường lười bò của Trung Quốc vẽ ra. (Ảnh: boxitvn)
VnExpress - 'Đường lưỡi bò' gây phức tạp Biển Đông

Ủy ban Biên giới quốc gia Việt Nam bình luận rằng đường lưỡi bò mà Trung Quốc nêu ra là nguyên nhân gây căng thẳng phức tạp Biển Đông, và việc Trung Quốc đòi các nước phải xin phép để được khai thác dầu khí ở Biển Đông là vô lý.

Ngày 6/1/2012, Phó Vụ trưởng Vụ Biên giới và Biển, Bộ Ngoại giao Trung Quốc Dị Tiên Lương trả lời trực tuyến mạng Tin tức Trung Quốc về tranh chấp trên Biển Đông.

Về vấn đề này, Tiến sĩ Lê Quý Quỳnh, Vụ trưởng Vụ Biển - Uỷ ban Biên giới quốc gia, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã trả lời phỏng vấn báo VnExpress.

Hải quân nhân dân Việt Nam trên đảo Trường Sa Lớn, quần đảo Trường Sa. Ảnh: Thanh Hưng

- Trong bài phỏng vấn của mình, ông Dị Tiên Lương có nói: Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc, Trung Quốc đã thu hồi quần đảo “Tây Sa” (cách Trung Quốc gọi Hoàng Sa của Việt Nam) và “Nam Sa” (cách Trung Quốc gọi Trường Sa của Việt Nam) từ tay quân Nhật. Vậy thưa ông, sự thật lịch sử là như thế nào?

- Tại Hội nghị hòa bình San Francisco 1951 - một Hội nghị quốc tế quan trọng giải quyết vấn đề quy thuộc các vùng lãnh thổ sau chiến tranh thế giới thứ II, đại diện của Chính phủ Việt Nam khi đó đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và không có nước nào tham dự Hội nghị phản đối, trong khi Dự thảo Nghị quyết do Liên Xô đưa ra nhằm trao hai quần đảo này cho Trung Quốc đã bị 48/51 phiếu chống. Điều đó cho thấy, đòi hỏi về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đã bị bác bỏ; còn chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đã được thừa nhận tại một hội nghị quốc tế quan trọng sau chiến tranh thế giới thứ II. Như vậy, ý kiến phát biểu nói trên của ông Dị Tiên Lương là hoàn toàn trái với thực tế lịch sử lúc bấy giờ.

- Ông Dị Tiên Lương nói rằng: Tháng 12/1947, Bộ Nội chính Chính phủ Trung Quốc đã ban hành “Bản đồ vị trí các đảo ở Nam Hải”, vẽ “đường nét đứt” và đặt tên cho một số đảo đá, bãi v.v.... và chính thức công bố ra bên ngoài năm 1948 v.v... Đường nét đứt là để khẳng định chủ quyền lãnh thổ và lợi ích biển liên quan của Trung Quốc. Việc Trung Quốc đưa ra đường yêu sách theo đường đứt khúc 9 đoạn (hay còn gọi là “đường lưỡi bò”) năm 2009 trên Biển Đông đã gây ra rất nhiều phản ứng của các nước trong và ngoài khu vực và đã bị phê phán rất nhiều trong các cuộc hội thảo quốc tế. Xin ông cho biết ý kiến về việc này?

- Cho tới trước năm 2009, Trung Quốc chưa bao giờ chính thức đưa ra yêu sách này. “Đường lưỡi bò” hoàn toàn không có cơ sở pháp lý và lịch sử, vì được vẽ ra một cách tùy tiện, không có toạ độ của các điểm cụ thể và không được quốc tế công nhận. Năm 2009, Trung Quốc lần đầu chính thức đưa yêu sách “đường lưỡi bò” ra Liên Hợp Quốc nhưng không có giải thích cụ thể. Ngay sau đó, Việt Nam, và tiếp đến là Indonesia, Philippines đã gửi công hàm lên Liên Hợp Quốc để phản đối yêu sách phi lý đó của Trung Quốc. Tại các cuộc hội thảo quốc tế gần đây, rất nhiều học giả quốc tế như Pháp, Bỉ, Mỹ, Indonesia đã chỉ ra tính phi lý của yêu sách “đường lưỡi bò”, đồng thời, nhiều học giả còn nhấn mạnh rằng, chính yêu sách “đường lưỡi bò” là nguyên nhân gây ra những căng thẳng, phức tạp trên Biển Đông. Cụ thể là:

- Yêu sách “đường lưỡi bò” hoàn toàn đi ngược lại Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 mà Trung Quốc là một bên tham gia; vùng biển mà “đường lưỡi bò” bao trùm không thể là lãnh hải hay vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của Trung Quốc.

- Cho tới nay, các văn bản pháp luật về biển của Trung Quốc đều không đề cập tới yêu sách “đường lưỡi bò”;

- Thực tiễn các quốc gia ven Biển Đông cũng như các quốc gia ngoài khu vực đều phủ nhận yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc;

- “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc đã xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của năm nước là Việt Nam, Philippines, Indonesia, Malaysia và Brunei.

- Ông Dị Tiên Lương khẳng định Trung Quốc có đầy đủ chứng cứ lịch sử và pháp lý đối với chủ quyền ở “Nam Sa” (Trường Sa). Ông có ý kiến gì về vấn đề này?

- Đối với vấn đề chủ quyền lãnh thổ trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và chứng cứ lịch sử chứng minh rằng Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo này ít nhất từ thế kỷ 17 khi nó chưa thuộc chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào. Từ thế kỷ thứ 17 đến thế kỷ 19, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo như cử các đội Hoàng Sa ra quần đảo đo đạc, thể hiện trên bản đồ, dựng bia, lập miếu, quản lý và tổ chức đánh bắt hải sản tại quần đảo Hoàng Sa. Các văn bản pháp lý của Nhà nước phong kiến Việt Nam như Châu bản, Sắc chỉ hiện đang được lưu giữ tại các trung tâm lưu trữ của Việt Nam đã khẳng định rõ chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trong thời kỳ Pháp thuộc (cuối thế kỷ 19 nửa đầu thế kỷ 20), Pháp đã nhân danh Việt Nam tiếp tục thực thi quyền quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; từ những năm 30 của Thế kỷ 20 Pháp quy thuộc hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào các tỉnh đất liền của Việt Nam và cho quân đồn trú ở hai quần đảo này; sau đó theo Hiệp định Geneva, Pháp đã chuyển giao hai quần đảo cho chính quyền Sài Gòn - Chính phủ Việt Nam Cộng hoà. Sau năm 1975, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý các đảo ở Trường Sa.

Như vậy, việc thực thi chủ quyền lãnh thổ của các Nhà nước Việt Nam trên 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đã được tiến hành một cách thực sự, hoà bình và liên tục, phù hợp với luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, năm 1956 Trung Quốc đã đưa quân đội chiếm các đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa, năm 1974 Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa; và năm 1988, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm một số bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa. Hành động này của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, đi ngược lại tinh thần Hiến Chương của Liên Hợp Quốc và đã bị nhiều quốc gia trên thế giới lên tiếng lên án.

- Ông Dị Tiên Lương nói rằng năm 1958, Thủ tướng Việt Nam khi đó là Phạm Văn Đồng đã gửi Công thư đến Thủ tướng Chu Ân Lai, công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với đảo “Tây Sa” (Hoàng Sa) và “Nam Sa” (Trường Sa). Ông có thể cho biết ý kiến của mình về việc này?

- Nội dung của Công thư ngày 14/9/1958 là hết sức rõ ràng: Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chỉ ghi nhận, tán thành và tôn trọng Quyết định của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về hải phận 12 hải lý của đất nước Trung Quốc. Công thư không liên quan gì đến vấn đề chủ quyền lãnh thổ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lúc đó nằm phía Nam Vĩ tuyến 17 và theo Hiệp định Geneva thuộc thẩm quyền quản lý của chính quyền miền Nam Việt Nam - Chính phủ Việt Nam Cộng hoà.

Việc cho rằng bản Công thư ngày 14/9/1958 là bằng chứng Chính phủ Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là xuyên tạc lịch sử. Việt Nam từ trước tới nay chưa hề có bất cứ một tuyên bố nào từ bỏ chủ quyền thiêng liêng của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Tháng 9 năm 1975, khi tiếp đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam sang thăm Trung Quốc, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã nói: “Giữa hai nước có tranh chấp về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, sau này sẽ bàn bạc giải quyết”. Trong Bị vong lục ngày 12/5/1988 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng đã nhắc lại nội dung này. Điều này cho thấy, theo quan điểm của phía Trung Quốc, giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc có tồn tại tranh chấp đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tại các cuộc đàm phán về vấn đề trên biển giữa hai nước, kể cả tại các vòng đàm phán về Thoả thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển vừa qua, hai bên đều nêu rõ quan điểm của mình về vấn đề chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Tôi xin khẳng định lại một lần nữa rằng lập trường của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là rõ ràng và nhất quán. Việt Nam là nhà nước đầu tiên và duy nhất đã thực hiện quyền làm chủ của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách hoà bình, ổn định và liên tục. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mặt khác, Việt Nam chủ trương giải quyết mọi tranh chấp ở Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng Luật pháp và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 và trên tinh thần của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông năm 2002.

- Ông có bình luận gì về việc ông Dị Tiên Lương nói rằng các hoạt động dầu khí của các nước ở “Nam Hải” (Biển Đông) mà không có sự đồng ý của Trung Quốc là hoạt động phi pháp?

- Là quốc gia đã ký kết và phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982, Việt Nam đã và đang thực thi đầy đủ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các hải đảo, vùng biển và thềm lục địa của mình theo các quy định của Công ước. Cụ thể, Việt Nam đã thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát đảm bảo thi hành pháp luật trên các vùng biển và hải đảo; tiến hành thăm dò, khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường biển trong đó có các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí. Các hoạt động dầu khí đều được tiến hành trong vùng đặc quyền và thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam, không có tranh chấp với bất kỳ quốc gia nào.

Chính Trung Quốc cũng là quốc gia đã phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 nên cần phải có nghĩa vụ thực hiện các quy định của Công ước này.

Phát biểu nói trên của ông Dị Tiên Lương là hoàn toàn vô lý, xúc phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của các quốc gia ven biển theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982.

Nguồn: VnExpress
Bùi Việt Phương - Văn hóa đọc dần bị thay thế bằng văn hóa đọc miệng người khác nói. Từ chỗ mượn mắt của người khác đọc hộ, nghe người khác nói, đến chỗ mượn cả trái tim và khối óc của người khác nghĩ hộ mình, rung động hộ mình, chỉ là một bước ngắn.

Đọc bao giờ cũng là tự làm cô đơn mình.

Giữa thời đại văn hóa thị giác, người ta chợt hay nhắc đến văn hóa đọc như một đối trọng. Thực sự là hai cái ấy ít nhiều xung khắc với nhau. Văn hóa thị giác làm tươi mát đời sống bằng những biểu hiện bên ngoài của thế giới như màu sắc, hình ảnh và âm nhạc. Còn văn hóa đọc thì trầm lắng, tạo ra sự đa thanh bằng chiều sâu của những tầng tri thức. Một bên như cái tán sum suê, sinh cành đẻ lá. Một bên cứ âm thầm hút nhựa từ đất, càng miệt mài đằm sâu, càng cô đơn.

Đọc có nghĩa là được cô đơn. Khi thưởng thức các loại hình nghệ thuật gắn với môi trường diễn xướng như kịch, âm nhạc, người thưởng thức buộc phải chung sống với số đông. Những ý kiến và nhu cầu tranh luận nảy sinh ở họ phần nhiều là trực tiếp. Còn khi đọc, ta sống trong một thế giới siêu không gian, siêu thời gian, cách ly với mọi hệ lụy bên ngoài.

Ta cảm nhận những điều sách nói bằng cảm giác của thân thể. Bởi sự tuyệt đối "chân không" ấy mà sự đọc khiến độc giả chìm sâu vào một thế giới của riêng mình. Không phải không có những người đọc choáng ngợp trước sách để rồi không thu nạp được gì nhiều ngoài sự hoang mang. Nhưng, đọc đúng hướng và đúng tầm thì cũng như hạt mầm gieo xuống đất. Nó chìm sâu để rồi tự vươn lên như một cái cây, tạo cho con người một phẩm chất đọc riêng, có thể gọi là nhân cách đọc.

Đã có một thế giới khác khi cầm trang sách, tất chúng ta có một địa vị cho mình trong thế giới ấy. Sự đọc dẫn đến sự phân loại độc giả trong mối tương giao với sách, điều người ta hay gọi là “sách kén người”.

Việc người đọc tự phân loại mình là một vận động biện chứng, tự thân, độc lập với sự chia luồng độc giả của người viết sách và giới làm sách nhằm tới lợi nhuận thương mại. Đọc để tự biết mình và làm khác mình bằng sự khác biệt về bản sắc và quan điểm về thế giới. Đọc là được cô đơn, cô đơn để có sự khác biệt và độc lập trong suy nghĩ.

Với sách văn chương, sự cô đơn có nguồn gốc sâu xa ở chỗ, mỗi người đọc có một thể nghiệm riêng với tác phẩm, một tương tác riêng với nó. Người ta làm một cuộc phiêu lưu vào sách, sống cuộc đời nhân vật trong sách, và hơn hết thử làm chủ nhân một thế giới khác, với trật tự lôgích của riêng nó.

Với những cuốn sách thuộc các lĩnh vực khác, sự cô đơn thể hiện thông qua chính kiến và quan điểm riêng của người đọc. Nếu không tự xây dựng định hướng tư duy cho mình thì dù có cập nhật bao nhiêu tri thức cũng vẫn là anh thủ kho kiến thức mà thôi.
Sự định hướng ấy là bản lĩnh tiếp nhận. Bản lĩnh tiếp nhận là một biến thể của sự cô đơn - sự cô đơn của cá nhân từ chối hòa tan vào bầy đàn một cách thiếu suy nghĩ.

Một câu hỏi đặt ra: Nếu đọc để đạt đến sự cô đơn, liệu có phải những kẻ đọc sách đều là nhưng người lập dị không? Ngày nay đang tồn tại giữa chúng ta một cách đọc mang tính bầy đàn, dựa vào quan điểm đánh giá của một số nhà điểm sách. (Về sự đáng ngờ của các quan điểm đó - sự chênh lệch giữa giá trị ảo được thiết lập nhờ các bài điểm sách trên báo với giá trị thực của cuốn sách, thiết tưởng chúng ta sẽ cần tiếp tục bàn nhiều vào những lần khác).

Thay vì tự tạo cho mình một chính kiến văn hóa, một thái độ độc lập, người ta buông mình theo sự a dua đến mức kinh ngạc. Số đông ấy tuy có âm lượng to, dung lượng lớn, nhưng chỉ là hiện tượng nhất thời. Họ bị những mốt này mốt nọ “cưa đổ" như quân bài đôminô mà không hay cái sự ấy khởi phát từ đâu.

Con người bị cuộc sống hiện đại lấy mất khoảng thời gian tự tại, đi đến chỗ ỷ lại vào những giá trị văn hóa tinh thần thập cẩm, pha loãng, không cần phải mất công sức cũng có được.

Văn hóa đọc (sách) dần bị thay thế bằng văn hóa đọc miệng người khác nói. Từ chỗ mượn mắt của người khác đọc hộ, nghe người khác nói, đến chỗ mượn cả trái tim và khối óc của người khác nghĩ hộ mình, rung động hộ mình, chỉ là một bước ngắn. Liệu có phải vì vậy mà có nhiều người đọc mà chỉ có rất ít đôi mắt nội tại không? Chúng ta tự tước đoạt lá phiếu của chính mình hầu bỏ phiếu tín nhiệm cho mỗi cuốn sách để thay bằng sự áp đặt và đô hộ của những mốt đọc. Trong khi đó, sự cô đơn thực sự giúp người đọc có sự đánh giá của riêng mình. Càng cô đơn trong ý nghĩ, người đọc càng có nhiều thắc mắc và động lực đào sâu tìm kiếm mạch nguồn, tìm sự liên hệ bề sâu với cộng đồng những người đọc với đúng nghĩa của nó.

Chính sự cô đơn làm nên vẻ đẹp lấp lánh cho những cuốn sách.
Nguồn: Tia Sáng
Nhà Thơ Bùi Chát.
(Ảnh: huyenthoaithanglong)
Hiện thực xã hội chủ nghĩa


Anh chị em hãy nhớ
Chúng ta có mặt nơi đây không phải để khóc
Không phải để cân nhắc
Im lặng
Rồi quay đầu
Chúng ta ở đây để sống
Để thể hiện bổn tánh chúng ta

Đâu nhất thiết phải quan tâm
Nhắc nhở lời đe dọa
Bởi, với chúng ta
Sợ hãi- không bao giờ là mục đích

Bài thơ một vần- Bùi Chát
nhà xuất bản Giấy Vụn năm 2009
Hồ Bất Khuất - “Giá trị chung nhân loại” – Cụm từ nghe vừa lạ, vừa quen. Quen vì khi tách ra thành những từ riêng biệt, chúng vô cùng gần gũi với mọi người. Còn lạ là vì sự kết hợp này có vẻ chưa thật nhuyễn, nói chưa quen miệng, nghe chưa quen tai. Song, đây là một khái niệm có vai trò quan trọng trong khoa học. Dẫu vẫn bị một số nhà chính trị thiển cận ở Việt Nam nghi ngại, nhưng đã đến lúc chúng ta cần công khai nói về điều này....

Đi tìm nguồn gốc và xác định nội dung khái niệm “Giá trị chung nhân loại”

Khi làm việc và suy nghĩ hàng ngày, trong tôi luôn luôn tồn tại những ý nghĩ về giá trị, có khi rất chung, có lúc rất cụ thể. Hàng chục năm nay, khi nghiên cứu, viết bài, giảng dạy, trong đầu tôi thường hiển hiện những giá trị lớn, có tính phổ quát cao nhưng chưa được gọi lên thành tên, thành khái niệm, nghĩa là chúng chưa có “vỏ” ngôn ngữ trong tiếng Việt. Tuy vậy, chúng luôn ở trong tôi, làm cơ sở cho tư duy của tôi. Điều đó diễn ra trong thực tế suốt một thời gian dài. Khi được biết Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh dự định tổ chức Hội thảo với chủ đề “Khoa học xã hội thời hội nhập”, tôi suy nghĩ và cho rằng, đã đến lúc cần gọi tên chúng ra, tôi gọi đó là “Giá trị chung nhân loại”.

Có lẽ, tôi không phải là người đầu tiên nghĩ ra và sử dụng cụm từ “Giá trị chung nhân loại” trong tiếng Việt. Đây cũng không phải lần đầu tiên tôi sử dụng. Tôi đã sử dụng cụm từ này trong một số bài viết vào cuối những năm tám mươi của thế kỷ trước, khi tôi còn công tác tại Tạp chí Cộng sản. Nhưng lúc đó tôi sử dụng theo cảm tính, chưa thấy hết sự phong phú, đa dạng, đa diện của khái niệm này.

Có thể ở đâu đó, lúc nào đó trong thời gian gần đây, những ai đó đã sử dụng cụm từ này rồi. Tôi muốn đi tìm nguồn gốc và hiểu thấu đáo về khái niệm này. Vào Internet, tìm đến Google.com, gõ tiếng Việt “Giá trị chung nhân loại”, trên màn hình máy tính hiện lên dòng chữ: “Có phải bạn muốn tìm: Giá trị trong nhân loại?”. Tôi thử lại nhiều lần, kết quả vẫn thế. Chỉ đến khi đưa cụm từ “Giá trị chung nhân loại” và trong ngoặc kép (“…”) thì mới xuất hiện vài ba kết quả có cụm từ “Giá trị chung nhân loại” liên quan đến Nhật Bản, Ucraina, Nhà văn Nguyễn Quang Sáng”.

Như vậy có nghĩa là cụm từ “Giá trị chung nhân loại” trong tiếng Việt chưa được nhắc tới nhiều trong thời gian gần đây. Do đó, việc truy tìm nguồn gốc, xác định nội dung cụm từ này như một khái niệm là điều cần thiết.

Muốn hiểu thế nào là “Giá trị chung nhân loại”, trước hết phải tìm hiểu “Lý thuyết giá trị”. Đây là lĩnh vực được nghiên cứu khá rộng rãi và kết quả cũng khá dồi dào. Tuy nhiên, việc tồn tại những quan điểm về giá trị khác nhau là điều không tránh khỏi.

Từ “Lý thuyết giá trị” đến việc công nhận “Giá trị chung nhân loại” là một quá trình khó khăn, không đồng nhất ở nhiều trung tâm, nhiều trường phái khoa học khác nhau. Song, có một điều cần thấy rõ: Hầu như không có nhà khoa học nào phủ nhận có những giá trị có tính phổ quát cao, khiến tất cả mọi người đều phải công nhận. Đó là: Điều thiện, Cái đẹp, Tình yêu thương, Tự do, Bình đẳng, Lương thiện, Khoan dung…

Các học giả phương Tây có nhiều công trình nghiên cứu về giá trị, nhất là giá trị con người. Trong tiếng Anh, có những cụm từ: “The Origins of Universal Human Values”, “All Human Values”, “Whole Human Values”, “Common Human Values” … có nghĩa khá giống với cụm từ “Giá trị chung nhân loại” trong tiếng Việt, nhưng cũng không có cụm từ nào có ý nghĩa tương đương trùng khít. Hơn nữa, cách hiểu và cách sử dụng của những tác giả lại khác nhau.

Ví dụ, Wendell Bell – Giáo sư Đại học Yale University cho rằng: Nhiều dân tộc trên thế giới cũng đề cao các giá trị: Quyền riêng tư; Đối xử với người khác như mong muốn họ đối xử với mình; Tôn trọng cuộc sống, Thân thiện với thiên nhiên, Có lòng vị tha…

Ở Tây Âu có tổ chức Internatianal Association for Human Values (IAHV) đóng trụ sở tại Geneve (Thuỵ Sỹ) đặt ra mục đích: “To foster on a global scale, a deeper understanding of the values that us as human commynity” (Thúc đẩy nhận thức sâu hơn những giá trị trên phạm vi toàn cầu”. Những giá trị đó là: The innate dignity of human life (Xứng đáng với đời sống con người tốt đẹp bẩm sinh); Respect and consideration for the “other” (Tôn trọng và công nhận giá trị của những “người khác”; The interconnection between humankind and thus the need to care for and preserve the earth (Mối liên quan giữa xã hội và thiên nhiên, nhu cầu quan tâm và bảo vệ trái đất); The importance of integrity and service (Tầm quan trọng của sự thống nhất và hỗ trợ lẫn nhau); An attitude of non-violence (Ýchí tránh bạo lực); The individual and collective quest for peace and happiness (Khát vọng của cá nhân và tập thể vương tới hoà bình và hạnh phúc)

Trong tiếng Nga có cụm từ “Общая человеческая ценность” có ý nghĩa gần như trùng khít với “Giá trị chung nhân loại” trong tiếng Việt. Nhưng các học giả người Nga lại cho rằng, họ cũng không biết ai là tác giả, cũng như nguồn gốc ra đời của cụm từ này. Họ cho rằng cụm từ “Общая человеческая ценность” được sử dụng nhiều trong thời kỳ “Cải tổ” với người khởi xướng là Gorbatrov ( Lúc đó là Tổng Bí thư Đảng cộng sản Liên Xô, Tổng thống Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết). Tuy nhiên, họ chỉ ra rằng, cụm từ này có từ trước đó rất lâu. Trong Đại từ điển bách khoa toàn thư của Liên Xô, hay Từ điển bách khoa toàn thư văn học xuất bản từ những năm ba mươi của thế kỷ XX đã nói đến những giá trị chung nhân loại. Ví dụ, “Trong xã hội cổ đại, những giá trị chung nhân loại đã được tạo ra. Triết học, văn chương, hội hoạ, kiến trúc phát triển ở trình độ cao đã đạt đến những giá trị này”.

Các học giả người Nga cũng khẳng định: Cụm từ “Общая человеческая ценность” không có ý nghĩa tương đương trùng khít với tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức…, nghĩa là họ cho rằng, “Общая человеческая ценность” cũng được các học giả phương Tây quan tâm, nghiên cứu, nhưng cách nhìn nhận của họ có đôi chút khác biệt với cách nhìn nhận của người Nga. Và cụm từ “Общая человеческая ценность” trong tiếng Nga không có nguồn gốc, hay không được “dịch thẳng” từ ngôn ngữ nào đó của các nước châu Âu.

Sau khi Liên Xô sụp đổ, có một thời gian người Nga cũng ít đề cập tới “Giá chung nhân loại”, nhưng gần đây họ xem “Giá trị chung nhân loại” có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống, là cơ sở để định hướng nhiều hoạt động trong xã hội, xây dựng nhiều chương trình quan trọng, trong đó có chương trình giáo dục.

Một học giả người Nga N. G. Sevostjanova muốn khái quát “Giá trị chung nhân loại” bằng lời lẽ như sau:

Giá trị chung nhân loại là một hệ thống những giá trị có tính phổ quát mà nội dung của chúng không liên quan trực tiếp, không phụ thuộc vào bất cứ giai đoạn cụ thể nào của phát triển lịch sử, hay truyền thống xã hội của một dân tộc nào cụ thể, nhưng lại tích hợp trong mỗi truyền thống văn của mỗi dân tộc bằng ý nghĩa cụ thể, và được tái hiện trong bất kỳ loại hình văn hoá nào với tư cách chất lượng của giá trị. (Có thể đọc toàn bộ văn bản ở địa chỉ http:// fil.vslovar. org.ru)

Có thể xem đây là định nghĩa về “Giá trị chung nhân loại” của một người đưa ra. Do vậy, sự chính xác và dễ hiểu của nó còn hạn chế. Nhưng nó cũng đã cung cấp cho chúng ta những ý niệm về những giá trị chung nhân loại.

Có nhiều cách phân loại những giá trị chung nhân loại. Trong tự nhiên: Đó là những khoáng sản có ích, cây cối, vẻ đẹp thiên nhiên, sông núi, ruộng đồng…; Trong đời sống xã hội, có thể chia ra nhiều lĩnh vực. Trong chính trị: hoà bình, tự do, dân chủ, bình đẳng…, Trong văn hoá - đạo đức: danh dự, lương tâm, trách nhiệm…; Trong khoa học: chân lý; Trong tôn giáo: niềm tin; Trong văn học - nghệ thuật: cái đẹp, cái cao cả, sự hoàn mỹ…

Tuy nhiên, để đại bộ phận quần chúng công nhận những giá trị chung nhân loại cụ thể, các nhà lý luận, các nhà khoa học còn rất nhiều việc phải làm.

Thuyết phục mọi người công nhận “Giá trị chung nhân loại” trên thực tế


Dù có đưa ra những định nghĩa về “Giá trị chung nhân loại” thế nào đi chăng nữa cũng khó mà bao quát toàn bộ nội dung của khái niệm này. Những nghiên cứu, phân loại “Giá trị chung nhân loại” trong các tác phẩm, các công trình khoa học của các học giả nước ngoài khá nhiều, nhưng họ cũng chỉ mới đưa ra những giá trị quen thuộc và dừng lại ở dạng tổng thể, trừu tượng như: Cái đẹp, Điều thiện, Chân lý, Niềm tin, Lương tâm, Danh dự, Dân chủ, Bình đẳng… Những giá trị này ai cũng công nhận, nhưng không ai “cầm nắm” được chúng trong tay.

Từ xưa đến nay, trong nhiều trường hợp, những giá trị chung nhân loại thường được nhìn nhận dưới góc độ chính trị. Do xem nặng ý nghĩa chính trị của các loại giá trị nên chúng ta rất khó thống nhất với nhau, vì lợi ích và quan điểm của các quốc gia trong lĩnh vực này thường là khác nhau. Đặt giá trị chung nhân loại dưới góc nhìn khoa học mới có thể đi đến thống nhất quan điểm được. Giá trị chung nhân loại có cả trong lĩnh vực khoa học, tôn giáo, đạo đức, văn học, nghệ thuật… và cả kinh tế nữa. Ví dụ, cơ chế hoạt động của kinh tế thị trường là một trong những giá trị chung nhân loại. Dẫu nhiều nhà khoa học chỉ ra rằng, nền kinh tế thị trường chưa hoàn hảo, vẫn còn những khiếm khuyết lớn, nhưng đến nay vẫn chưa ai nghĩ ra loại hình kinh tế tốt hơn; những quy luật của nó vẫn phát huy tác dụng mạnh mẽ ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.

Cần phải khẳng định: Dẫu thế nào thì trên thế giới cũng tồn tại những giá trị được tất cả mọi người, bất kể mang quốc tịch gì, theo tôn giáo nào đều công nhận. Đó chính là những giá trị chung nhân loại. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở những lời lẽ chung chung như vậy, khó mà thuyết phục được ai. Hơn nữa, mỗi người có quan điểm riêng, cách nhìn nhận, đánh giá riêng nên rất có thể nhiều người không công nhận những giá trị chung nhân loại đó có giá trị với họ.

Vậy phải tìm cách đơn giản nhất, dễ hiểu nhất, thuyết phục nhất để chỉ ra rằng, những giá trị chung nhân loại đã và đang tồn tại trong cuộc sống của chúng ta. Để thuyết phục mọi người công nhận có “Giá trị chung nhân loại”, cần chứng minh đơn giản, đi từ những điều cụ thể nhất.

Xin bắt đầu bằng cách chọn lĩnh vực văn học, nghệ thuật để làm điều này. Xin nêu những tác giả, tác phẩm cụ thể luôn. Trên thực tế, hầu như dân tộc nào cũng say sưa thưởng thức tác phẩm Iliad, Odyssay của Homer; King Lear, Hamlet, Romeo and Juliet của Shakepeare;Người con gái viên đại uý, Evgheni Onegin của Pushkin; Phục sinh, Chiến tranh và Hoà bình của Tolstoi. Thậm chí người ta còn chỉ ra rằng, trong những ngày ác liệt nhất của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, người Nga đọc tác phẩm của các nhà văn Đức; người Đức đọc tác phẩm của những nhà văn Nga. Đây là những ví dụ hùng hồn cho việc có những tác phẩm văn học đã đạt tới tầm giá trị chung nhân loại; chúng vượt qua được mọi rào cản về sắc tộc, tôn giáo, thời đại. Người dân thuộc bất cứ dân tộc nào, theo tôn giáo gì đi chăng nữa cũng say mê đọc những tác phẩm này. Hay những tác phẩm điêu khắc, hội hoạ từ thời cổ đại Hi Lạp – La Mã, thời Phục Hưng hay các trường phái lãng mạng, hiện thực thế kỷ thứ XIX là những tuyệt tác mà tất cả mọi người đều thừa nhận.

Bằng cách đi từ văn học nghệ thuật, lấy những tác giả, tác phẩm cụ thể, chúng ta có thể thuyết phục mọi người công nhận sự tồn tại của những giá trị chung nhân loại. Khi đã có sự công nhận về nguyên tắc ban đầu thì việc công nhận những giá trị tiếp theo là điều tất yếu. Thậm chí có những lĩnh vực chứa đựng những giá trị chung nhân loại một cách hiển nhiên. Nếu trong lĩnh vực khoa học xã hội, những giá trị chung nhân loại đang được hình thành và bàn cãi thì những giá trị chung nhân loại ở khoa học tự nhiên đã được xác lập từ lâu và tiếp tục được làm giàu ở các lĩnh vực toán học, vật lý, hoá học, địa chất, sinh vật…

Bản chất của những giá trị chung nhân loại thuộc lĩnh vực tinh thần không nằm ở chỗ có khát vọng vượt trội của một hệ thống giá trị đối với những giá trị còn lại, mà chúng nằm ở chỗ hình thành những mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau trong việc công nhận ưu tiên những lợi ích của toàn xã hội đối với lợi ích của từng nhóm riêng biệt.

Vai trò của những giá trị chung nhân loại trong thế giới hội nhập


Dù vẫn còn những sự khác biệt về cách hiểu những giá trị chung nhân loại giữa các trường phái học thuật trên thế giới, nhưng sự tồn tại của những giá trị này là có thực, được đông đảo các nhà nghiên cứu công nhận. Điều quan trọng là chính những giá trị này đã và đang đóng vai trò quan trọng trong đời sống quốc tế. Từ những thoả thuận giữa các quốc gia đến các chiến dịch của cứu trợ của các tổ chức phi chính phủ đều có sự tác động của những giá trị chung nhân loại. Không phải ngẫu nhiên, công dân của các nước châu Âu, châu Mỹ đến châu Á, châu Phi để chữa bệnh cho người già, trẻ em. Cũng không phải ngẫu nhiên, các nước phát triển viện trợ không hoàn lại và cho vay vốn ưu đãi để các nước kém phát triển hơn xây dựng hạ tầng cơ sở của mình.

Những tổ chức quan trọng của thế giới như Liên hợp quốc, UNESCO cũng được ra đời và phát triển trên cơ sở công nhận những giá trị chung nhân loại. Và ngày nay, chính những tổ chức này lại góp phần quan trọng vào việc đánh giá và tạo ra những giá trị chung nhân loại thông qua việc làm trung gian hoà giải, giải quyết mâu thuẫn giữa các quốc gia, công nhận những di tích thiên nhiên, văn hoá, lịch sử có giá trị vô cùng lớn lao trên toàn cầu.

Hiểu được vai trò và ý nghĩa của những giá trị chung nhân loại, con người sẽ trở nên cân bằng hơn, ít tham lam hơn, quan tâm hơn đến người khác. Trong phát biểu của những người nổi tiếng trong lĩnh vực khoa học công nghệ và kinh doanh như Steve Jobs (vừa quá cố), Bill Gates, Larry Page đều có điểm chung là họ hiểu và tôn trọng những giá trị chung nhân loại. Do hiểu rất rõ những giá trị chung nhân loại nên nhiều người giàu có trên thế giới giành tiền bạc và thời gian để đi làm từ thiện.

Tuy nhiên, ở phía ngược lại, chúng ta thấy vẫn cón nhiều người tham lam, gian ác; muốn áp đặt ý chí của mình lên trên tất cả, muốn những người khác phải phục tùng, đặt mục tiêu kiếm tiền lên trên hết… Oái oăm thay, điều này lại thường xẩy ra trong thế giới của chúng ta, nhất là ở những nước nghèo và rất nghèo. Lợi ích nhóm hiện đang là một trong những tác nhân gây nên sự cách biệt rất lớn về giàu - nghèo trong xã hội.

Nêu lên như vậy để chúng ta thấy rằng, những giá trị chung nhân lạo là có thật, chúng đã được người công nhận và tôn trọng; chúng đã đặt nền móng cho sự phát triển của nhân loại tiến bộ. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận, một số thế lực chưa hiểu, hoặc cố tình không muốn hiểu, không chịu thừa nhận giá trị chung nhân loại, vì thế vẫn còn những mâu thuẫn, những bất đồng, những xung đột. Việc đề cao và phổ biến những giá trị cung nhân loại vẫn đòi hỏi rất nhiều nỗ lực ở con người.

“Giá trị chung nhân loại” và người Việt Nam

Nếu nhìn từ góc độ những giá trị tuyệt đối như: Cái thiện, Cái đẹp, Đạo đức, Lương tri... thì ông cha ta xưa kia cũng không xa lạ gì với những giá trị chung nhân loại. Thậm chí, những gia trị này đã thành đạo lý của dân tộc ta từ lâu. Dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển qua hàng ngàn năm lịch sử, xét cho cùng là dựa trên nến tảng những giá trị chung nhân loại.

Tuy nhiên, trong lịch sử hiện đại, nhất là trong thời kỳ “chiến tranh lạnh” trên thế giới và “chiến tranh nóng” ở Việt Nam, không có điều kiện thuận lợi để bàn luận cũng như công nhận những giá trị chung nhân loại, nhất là những giá trị đó lại được tạo ra ở những quốc gia thù địch.

Vì phải tiến hành chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, người Việt Nam đã sống nhiều năm trong những hoàn cảnh khá đặc biệt, không dễ gì công nhận những cái hay, cái tốt, cái đẹp ở phía kẻ thù. Mà một khi đã không công nhận thì, nếu không phủ nhận thì ít ra cũng không nói tới những điều này, không ca ngợi chúng.

Thời chiến tranh, Liên Xô cung cấp cho ta máy bay MIC 21, nhìn thấy máy bay, có cán bộ cao cấp của ta nói: “Máy bay thì tốt, thì đẹp thật đấy, nhưng hình dáng của chúng giống máy bay của Mỹ quá. Các đồng chí Liên Xô là xã hội chủ nghĩa, sao lại làm giống máy bay của chủ nghĩa đế quốc?!”. Các chuyên gia Liên Xô buộc phải giải thích: “Dựa vào những nguyên tắc vật lý, chính xác là khí động học, muốn máy bay bay nhanh, buộc chúng phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất định. Những người chế tạo máy bay của Mỹ và của Liên Xô đều biết những nguyên tắc này, tuân thủ nó. Kết quả là hình dạng máy bay chiến đấu của hai nước giống nhau”.

Kiểu tư duy như cán bộ cao cấp của Việt Nam vào thời điểm đó không phải là cá biệt. Suy nghĩ và hành động theo quan điểm chính trị - tư tưởng, bất chấp những nguyên lý khoa học nhằm phục vụ cho mục đích trước mắt là chỉ ra sự khác biệt giữa ta và kẻ thù. Trong điều kiện như vậy, khó có diễn đàn cho việc lý giải và khẳng định những giá trị chung nhân loại.

Chỉ đến cuối những năm tám mươi của thế kỷ trước, khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, chúng ta mới có ý thức tìm đến những giá trị chung nhân loại một cách công khai. Nhà triết học Trần Đức Thảo bao nhiêu năm “im hơi, lặng tiếng”, lúc này mới lại thấy xuất hiện. Trước hết, ông có những buổi nói chuyện chuyên đề, sau có những bài viết đăng báo. Một số bài báo của ông đăng trên Sài Gòn giải phóng (Số ra ngày 24/4/1988) Về quan điểm triết học của sự đổi mới, của sự cải tổ có tính cách mạng”, hay trên Tạp chí Cộng sản (Số 1 – 1991) có ảnh hưởng lớn. Nguyễn Đức Thảo viết trong tác phẩm Một hành trình (được hoàn thành năm 1986): “Khi tự đối diện với chính mình, ý thức đòi hỏi cái Thiện trong hành động, cái Chân trong tri thức và cái Mĩ trong sự hoàn thành các quá trình sống trải, qua đó, ý thức biến thế giới tự nhiên thành một Nhân giới, xứng đáng với con người”.

Có thể nói Nhà triết học Trần Đức Thảo đã khơi nguồn cho tư duy tiếp cận những giá trị chung nhân loại cho chúng ta vào thời điểm lúc bấy giờ. Từ đó đến nay, nhiều nhà khoa học ở các trung tâm lớn của đất nước như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng… đã có những đóng góp nhất định nhằm thúc đẩy tư duy sáng tạo trong các bộ môn khoa học xã hội. Tuy vậy, những thành quả chúng ta đạt được vẫn khá khiêm tốn và còn nhiều hạn chế.

Thậm chí cho đến ngày nay, nhiều người Việt Nam vẫn nhìn nhận những giá trị chung nhân loại với cái nhìn vừa khiên cưỡng, vừa dè dặt. Theo dõi các kỳ họp Quốc hội, nhất là kỳ họp thứ hai của Khoá XIII, khi thảo luận về Dự luật Biểu tình và Dự luật Lập hội, một số đại biểu tỏ ra không hiểu hoặc không công nhận những giá trị chung nhân loại quan trọng như quyền được biểu tình, quyền được lập hội, nghĩa là những quyền cơ bản thuộc về quyền con người. Cụ thể, Đại biểu Hoàng Hữu Phước cho rằng, dân trí của Việt Nam còn thấp, chưa đủ điều kiện để ban hành Luật biểu tình. Còn Đại biểu Đặng Ngọc Nghĩa cho rằng, không cần Luật biểu tình vì “chế độ xã hội chủ nghĩa dân chủ gấp vạn lần chế độ tư bản” .

Như vậy là một số người có trách nhiệm tham gia trực tiếp vào quá trình lập pháp lại có ý muốn tước bỏ trên thực tế một số quyền quan trọng như quyền biểu tình, quyền lập hội. Trong khi đó, những quyền này không chỉ là nhu cầu thực tiễn của xã hội mà nó gần như là chuẩn mực của thế giới về quyền tự do của con người. Nêu hiện tượng và vấn đề này lên để chúng ta thấy rằng, khoa học về luật pháp ở Việt Nam còn rất nhiều vấn đề phải làm.

Để hội nhập thành công (không bị loại trừ, cũng như không bị đồng hoá), chúng ta còn phải nỗ lực rất nhiều, đặc biệt là những nhà khoa học xã hội. Khác với khoa học tự nhiên và khoa học cơ bản, khoa học xã hội có mối quan hệ mật thiết và liên quan chặt chẽ với chính trị - tư tưởng. Vì vậy nó bị chính trị - tư tưởng can thiệp và chi phối là điều đương nhiên. Ngược lại, nó cũng có cơ hội để tham gia trực tiếp vào hoạt động chính trị, tư tưởng, ngoại giao, thương mại…

Có lẽ chúng ta cần phải có một cuộc hành trình khá dài nữa mới có thể tiếp cận và “tiêu hoá” được những giá trị chung nhân loại đã trở nên khá phổ biến trên thế giới.

Qua các kỳ thi đại học và cách chọn nghề của học sinh trong những năm gần đây, ta thấy các ngành khoa học xã hội đang gặp khó khăn. Đây có lẽ cũng là đặc điểm của thời kỳ đầu phát triển kinh tế thị trường: Khi các mối quan hệ thị trường mới được xác lập, người ta ưu tiên cho những hoạt động trực tiếp tạo ra giá trị vật chất. Nhưng khi cái ăn, cái mặc tạm đủ, con người có nhu cầu cao hơn về tinh thần. Lúc này vai trò của các ngành khoa học xã hội sẽ được nâng cao. Bây giờ đang là lúc thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập của Việt Nam vào đời sống quốc tế. Đây chính là cơ hội lớn cho tất cả các lĩnh vực, trong đó có khoa học xã hội.

Trong quá trình hội nhập với thế giới, có lẽ các ngành khoa học xã hội gặp khó khăn nhiều hơn so với các ngành khoa học cơ bản, tự nhiên, công nghệ. Nhưng có lẽ những khó khăn này không làm làm các nhà khoa học xã hội Việt Nam nản chí. Hy vọng họ sẽ tìm hêm được những sức mạnh từ những giá trị chung nhân loại để tiếp tục công việc của mình một cách say mê hơn, hào hứng hơn.

Nguồn: Hồ Bất Khuất Blog
Hình: Getty Images/iStockphoto 
Nguyễn Hưng Quốc -Liên quan đến chuyện độc tài và dân chủ, quan sát tình hình chính trị trên thế giới, người ta thấy có hai điều gần như quy luật.

Thứ nhất, ở các nước có truyền thống dân chủ lâu đời, chính phủ có lên có xuống cách gì đi nữa thì dân chủ vẫn cứ dân chủ. Nhiều lúc, bầu cử xong, chẳng có bên nào thắng bên nào cả. Có hai biện pháp thường được tiến hành: một, đếm phiếu lại; và hai, các đảng loay hoay tìm cách liên hiệp với nhau để có một khối đa số. Biện pháp thứ nhất xảy ra ở Mỹ vào năm 2000 trong cuộc tranh cử giữa George W. Bush và Al Gore, bao gồm không những việc đếm phiếu lại mà còn có cả sự can thiệp của tòa án (ở tiểu bang Florida), kéo dài khoảng một tháng. Biện pháp thứ hai xảy ra nhiều hơn. Gần đây nhất là cuộc bầu cử ở Anh vào tháng 5 năm 2010 với kết quả là cả hai đảng chính, Lao Động và Bảo Thủ, đều không đủ 50% số phiếu cần có. Cả hai đảng đều cố tìm cách ve vãn đảng thứ ba là đảng Dân Chủ Tự Do. Cuối cùng đảng này ngả theo đảng Bảo Thủ, nhờ vậy, đảng Bảo Thủ được lên nắm chính quyền. Tuy nhiên, ở Anh, quá trình thương lượng tương đối nhanh, chỉ mất khoảng một tuần. Ở Úc, ba tháng sau đó, trong cuộc bầu cử liên bang vào ngày 21 tháng 8, kết quả cũng tương tự. Cuối cùng đảng Lao Động phải liên kết với đảng Xanh và các dân biểu độc lập để tiếp tục cầm quyền. Nhưng quá trình đàm phán ở Úc kéo dài khá lâu: đến 17 ngày. Điều đặc biệt là, trong tất cả trường hợp bất thường vừa kể, khi cả nước không có một người lãnh đạo thực sự, guồng máy hành chính và chính trị ở Mỹ, Anh và Úc vẫn chạy rất tốt. Dân chúng không hề nhận thấy có bất cứ một thay đổi nhỏ nào trong đời sống cả. An ninh và trật tự vẫn bình thường. Kinh tế vẫn phát triển. Khi cần làm giấy tờ gì liên quan đến công quyền, người ta vẫn có thể làm được một cách nhẹ nhàng và nhanh chóng.

Thứ hai, ngược lại, ở các nước độc tài, sau một cuộc cách mạng hoặc tự hóa thân với nhiệt tình dân chủ hóa, lại thường gặp rất nhiều vất vả trong việc xây dựng một chế độ dân chủ thực sự. Thường thấy nhất là hai trường hợp: một, nó trở lại với chế độ độc tài nhưng với mức độ và diện mạo khác; và hai, nó phải đi qua những con đường vòng khá quanh co và đôi lúc khá đẫm máu trước khi đến được cái đích mà mọi người mong muốn.

Vấn đề là: Tại sao như vậy?

Câu trả lời được nêu lên đầu tiên là: cơ chế. Người ta cho là, ở các quốc gia dân chủ lâu đời, bộ máy nhà nước đã hoàn thiện, những thay đổi về nhân sự, ngay cả nhân sự thuộc loại cao cấp nhất, cũng không gây ảnh hưởng gì nghiêm trọng. Điều này dĩ nhiên là đúng. Nhưng đó không phải là tất cả. Ở nhiều quốc gia mới dân chủ hay giả vờ dân chủ, người ta cũng có một bộ máy khá tương tự. Thì cũng chính phủ. Cũng Quốc hội. Cũng tòa án. Và đằng sau tất cả các thiết chế ấy, là Hiến pháp và luật pháp. Vậy mà giữa một nền dân chủ lâu đời và một nền dân chủ sơ sinh vẫn khác. Khác rất nhiều.

Câu trả lời thứ hai được đề nghị: văn hóa. Dân chủ không phải chỉ là một thiết chế mà còn là, nếu không muốn nói, chủ yếu còn là một văn hóa. Có một thứ văn hóa dân chủ và một thứ văn hóa phi dân chủ. Văn hóa phi dân chủ dựa trên chủ nghĩa cá nhân độc tôn, sự bí mật và tinh thần bạo động. Văn hóa dân chủ, ngược lại, dựa trên tinh thần tập thể, tính công khai và tinh thần sẵn sàng đàm phán và chấp nhận thỏa hiệp. Văn hóa phi dân chủ sử dụng mọi biện pháp, kể cả áp bức người khác, để giải quyết mọi vấn đề một cách nhanh gọn. Văn hóa dân chủ thừa nhận cái khác, sẵn sàng thảo luận và tương nhượng để cuối cùng mọi người đạt đến một sự đồng thuận chung.

Quan điểm thứ hai được cho là hợp lý. Nhưng ở đây lại có vấn đề: văn hóa dân chủ từ đâu mà có? Không thể nói văn hóa dân chủ nảy sinh từ một truyền thống dân chủ. Nói như vậy là đẩy vấn đề vào đường cùng: Nó sa vào cái bẫy quả trứng và con gà cái nào có trước. Nhưng một nền văn hóa dân chủ có thể được nảy nở trong một thể chế độc tài được không? Câu trả lời cũng lại là không. Đã đành văn hóa không nhất thiết gắn liền với thiết chế. Nhưng văn hóa cũng không phải là cái gì có thể nảy nở từ hư không. Văn hóa gắn liền với con người, với những điều kiện sinh sống của con người; mà con người thì lại chỉ hiện hữu trong và với thiết chế. Bất cứ cộng đồng nào, từ hai người trở lên, bao giờ cũng gắn liền với một thiết chế nhất định hoặc đến từ bên ngoài hoặc do họ xây dựng: nhỏ là gia đình, lớn là xã hội, lớn nữa là quốc gia. Không ai có thể thoát được. Một thiết chế được thành lập trên nền tảng bất khoan dung, chỉ nhắm đến các lợi ích ích kỷ trước mắt, sẵn sàng dùng súng đạn để giải quyết mọi mâu thuẫn, khó mà song hành được với một nền văn hóa dân chủ vốn lúc nào cũng đề cao những điều ngược lại.

Nhưng nếu không thể đợi đến lúc xây dựng được một thiết chế dân chủ và cũng không thể thoát khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của các thiết chế độc tài trong hiện tại, làm sao người ta có thể vun đắp một nền văn hóa dân chủ để làm tiền đề cho chế độ dân chủ sẽ được hình thành?

Câu trả lời, thật ra, đã có từ lâu.


Trong cuốn “Dân chủ ở Mỹ” (Democracy in America), xuất bản năm 1835, Alexis de Tocqueville (1805-1859) nhận thấy có nhiều sự khác biệt quan trọng trong đời sống chính trị giữa Mỹ và châu Âu. Một trong những khác biệt ấy chính là sự hiện diện của xã hội dân sự (civil society) ở Mỹ. Điển hình của hình thức xã hội dân sự ấy là vô số các hội đoàn do dân chúng thành lập và sinh hoạt độc lập với chính quyền. Các hội đoàn ấy bén rễ khắp nơi, ở mọi địa phương và thu hút rất nhiều tầng lớp dân chúng khác nhau. Họ thường gặp gỡ nhau, thảo luận về đủ loại vấn đề. Qua các sinh hoạt tập thể như vậy, dân chúng ảnh hưởng lên đời sống chính trị ở địa phương cũng như ở cấp quốc gia bằng cách nêu lên vấn đề, đặc biệt những vấn đề có tính chất cộng đồng, thuộc các nhóm thiểu số, vốn rất dễ bị chính quyền hờ hững. Trước các yêu sách của họ, tự dưng chính quyền phải trở thành minh bạch, mọi chính sách đều trở thành công khai, hơn nữa, họ phải quan tâm hầu như đến mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội, bất kể là lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo. Quan hệ giữa chính quyền và xã hội dân sự - qua hình thức sinh hoạt đoàn thể - như thế là một thứ quan hệ đầy tính chất dân chủ, thông qua đàm phán và tương nhượng. Nó khác hẳn với thứ quan hệ đầy trấn áp và bạo động ở châu Âu thời bấy giờ.

Có thể nói, qua quan sát của Tocqueville, xã hội dân sự là một trong những tiền đề quan trọng nhất để xây dựng chế độ dân chủ ở Mỹ.

Về sau, giới nghiên cứu cũng đồng ý với nhau, xã hội dân chủ cũng là tiền đề của mọi chế độ dân chủ nói chung. Nói như vậy cũng có nghĩa là muốn nói: Để có một chế độ dân chủ thực sự vững chắc, chúng ta cần có văn hóa dân chủ; và để có một nền văn hóa dân chủ, chúng ta cần xây dựng, trước hết, một xã hội dân sự lành mạnh.
Nguyễn Hưng Quốc

Nguồn: VOA Tiếng Việt

Dân Làm Báo (cập nhật lúc 1h30 chiều) - Phỏng vấn Trịnh Kim Tiến.


Sáng nay, thứ Sáu ngày 13 tháng 01 năm 2012, tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, phiên tòa xét xử Trung tá công an Nguyễn Văn Ninh - người đã đánh gẫy cổ ông Trịnh Xuân Tùng hồi tháng 3 năm 2011 sẽ diễn ra. Phiên tòa dự kiến sẽ bắt đầu vào lúc 8h30. Bên ngoài tòa án, mẹ - vợ - con của nạn nhân đang có mặt để chờ đợi. Được biết trong thông báo gửi cho gia đình nạn nhân, Tòa án đã ghi sai tên hai con gái nạn nhân là Trịnh Kim Tiến và Trịnh Cẩm Tú.
          Thân mẫu của ông Trịnh Xuân Tùng ngồi chờ được vào dự phiên tòa xử kẻ giết con mình

                                                Kim Tiến, mẹ và em trên đường đến tòa 

                                                     Quang cảnh ngoài phiên tòa:





Rất nhiều người thân và những người quan tâm đến phiên tòa không được vào bên trong tòa án. Tuy nhiên, theo quan sát của các CTV DLB, vẫn có nhiều quần chúng không cần xuất trình giấy mời hay giấy thông báo vẫn vào được bên trong. Có lẽ đây là khách mời đặc biệt bên phía công an.

Phiên tòa bắt đầu vào lúc 9h45 phút.

Chỉ có những người liên quan đến vụ án, người thân trực tiếp liên quan của ông Trịnh Xuân Tùng là mẹ, vợ, và hai con được vào dự phiên tòa. Những người thân khác, không được tham dự.

Một nhân chứng có liên quan ngay từ đầu (được cơ quan công an triệu tập lên làm việc 3 ngày liền) cũng không nhận được giấy thông báo về phiên tòa, và không được vào tham dự phiên tòa.




Một trong hai nhân chứng (áo nâu - giữa) đã từng bị triệu tập nhiều lần để làm rõ tình tiết vụ án, nhưng không nhận được giấy thông báo, và không được vào tòa. Nhân chứng này là người đã yêu cầu đưa ông Trịnh Xuân Tùng đi cấp cứu khi nhìn thấy ông bị đánh ngã xuống đất.

Được biết, Nguyễn Văn Ninh bị truy tố tội danh theo điều 97 - Bộ luật Hình sự (BLHS): "Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ" với khung hình phạt: từ 2 đến 7 năm tù giam.

Tuy nhiên, theo quan điểm gia đình nạn nhân Trịnh Xuân Tùng, tên Ninh phải bị truy tố với tội danh "Giết người", theo điều 93 BLHS, với khung hình phạt cao nhất từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. 

Trong các biên bản lấy lời khai có liên quan của các nhân chứng cho thấy, tên Ninh cùng các dân phòng đã từ chối đưa ông Trịnh Xuân Tùng đi cấp cứu, khi nạn nhân và người nhà đề nghị van xin. 

Tàn nhẫn hơn là những người trực ban vào tối xảy ra sự việc, đã còng tay, từ chối cho con gái nạn nhân là Trịnh Kim Tiến cho bố mình ăn uống.

Theo biên bản và ảnh gia đình nạn nhân Trịnh Xuân Tùng công bố, trên người nạn nhân có nhiều vết bầm tím, xây xát, và có các dấu hiệu bị chấn thương bên trong do ngoại lực tác động.



Trong hồ sơ vụ án đưa ra xét xử, không thấy nhắc đến trách nhiệm có liên quan của những dân phòng và những người trực ban có mặt lúc sự việc xảy ra và tại đồn công an Thịnh Liệt.

Điều này đã được gia đình nạn nhân Trịnh Xuân Tùng và luật sư bào chữa liên tục nhắc đến trong hồ sơ.

*
Tin nóng: Viện kiểm sát đang đề nghị mức án cho Nguyễn Văn Ninh là 3-4 năm tù giam. Phiên tòa đang chuẩn bị vào phần tranh luận của các luật sư.

Trong phiên tòa sáng nay, các nhân chứng có liên quan của bên bị cáo không có mặt. Luật sư của gia đình ông Trịnh Xuân Tùng đã dự đoán được điều này.

Luật sư bên bị cáo Nguyễn Văn Ninh đề nghị tòa xem xét mức án treo.

12:00 Phiên tòa tạm dừng để nghỉ trưa, và sẽ tiếp tục vào lúc 14h ở phần nghị án.

*

Phỏng vấn nhanh Kim Tiến:

Bạn Kim Tiến bạn có thể vui lòng cho biết diễn biến phiên tòa sáng nay không? 

Sáng nay phiên tòa diễn ra khoảng 9h45 phút, gia đình tôi và người thân được vào tham dự phiên tòa. 

Những nhân chứng trong hồ sơ đã cho lời khai là bố có hành vi hành hung ông Nguyễn Văn Ninh vắng mặt. Đây là điểm thiếu sót chứng cứ, và luật sư gia đình tôi có đề nghị triệu tập các nhân chứng này, nhưng không được đáp ứng. 

Sau phần khi tiến hành các thủ tục của một phiên tòa, mức án Viện kiểm sát đề nghị đối với ông Nguyễn Văn Ninh theo tội danh “Làm chết người trong khi thi hành công vụ” là 3-4 năm tù giam. Luật sư của ông Ninh đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo. 

Luật sư của gia đình tôi, không đồng ý với tội danh và mức án này. Luật sư bên tôi đề nghị truy tố đúng người, đúng tội với tội danh “Cố ý gây thương tích làm chết người.”. Bản thân ông Ninh đã làm sai quy định pháp luật khi lập biên bản. 


Ở phần phát biểu của tôi trước tòa: Là đại diện của gia đình bị hại, tôi phản đối mức án mà VKS đề nghị, bởi không thể xét xử một người đã giết chết người khác với mức án như vậy. Tôi cũng yêu cầu triệu tập thêm một nhân chứng có mặt lúc ở đồn công an Thịnh Liệt, là người đã đề nghị đưa bố tôi đi cấp cứu nhưng bị từ chối, và Tòa án đã bác bỏ đề nghị này. 


Bên cạnh đó, tôi cũng đã cung cấp thêm cho tòa án, băng ghi âm ý kiến của những người dân ở nơi xảy ra vụ việc, và tôi cũng trình bày trước tất cả những người có mặt trong phiên tòa tóm tắt diễn biến sự việc mặc dù đại diện của tòa có ngắt lời và đề nghị tôi dừng lại. 


Gia đình tôi cho rằng việc giam giữ người hơn 6 tiếng đồng hồ trong tình trạng bị còng tay vào ghế của công an phường Thịnh Liệt là trái pháp luật, bởi bố tôi không phải là tội phạm hình sự. Và gia đình tôi đề nghị xem xét, truy cứu trách nhiệm của những dân phòng và những người trực ban tối hôm đó tại đồn công an, vì họ có tham gia đánh bố tôi, và làm ngơ trước đề nghị đưa bố tôi đi cấp cứu.

Trong phiên tòa xử, bạn có thấy sự hiện diện của các nhà báo Việt Nam hay phóng viên ngoại quốc?

Theo quan sát của tôi, có rất ít phóng viên, hình như chỉ có 1 hoặc 2 người.

Bạn nhận xét thế nào về phiên tòa sáng nay?

Tôi cảm thấy phiên tòa trôi qua rất nhanh, luật sư bên gia đình tôi không thể đưa ra hết luận cứ vì có quá ít thời gian tranh luận. Phần tranh luận tòa dẫn dắt theo ý tòa. Tôi không nghĩ rằng phiên tòa lại trôi qua nhanh như thế, luật sư của gia đình tôi không thể trình bày hết những gì muốn nói vì bị tòa nhắc nhở và cắt lời.

thái độ của ông Ninh trong phiên tòa này thế nào thưa bạn?

Trước tòa, ông ta không hề có một lời xin lỗi nào với gia đình tôi. Khi tòa hỏi ông có lời nào muốn nói với gia đình bị hại không, ông ta nói rằng ông ta chia sẻ với nỗi đau của gia đình tôi. Ông ta là một người khách quan, làm đúng nhiệm vụ và chức trách của mình, và sự việc đau lòng của bố tôi chỉ là tai nạn nghề nghiệp. Ông ta cho rằng mình chỉ nhận án treo và mong tòa khoan hồng. Tôi thấy rằng, ông ta không hề tỏ ra hối hận với những gì mình làm, không hề thấy hối lỗi vì đã gây ra sự mất mát người thân cho gia đình chúng tôi.

Gia đình và những người thân của bạn nghĩ gì khi phiên tòa tạm dừng nghỉ trưa?

Gia đình tôi không đồng ý và rất bức xúc với mức án và VKS đề nghị. Khi nghe đọc bản án đề nghị, cả phòng xử đã ồ lên, và bên phía công an liên tục đề nghị giữ im lặng. Thật quá bất công với gia đình chúng tôi, không ai có thể nghĩ rằng, với một mạng người đã mất, mà có thể đưa ra mức án đó. Chúng tôi không đồng ý.

Bạn có hy vọng gì ở phiên nghị án chiều nay không?

Tôi hy vọng tòa sẽ xem xét và xử lý đúng người đúng tội, đúng mức án. Nếu mức án là 3-4 năm theo như đề nghị của VKS thì tôi không đồng ý và sẽ tiếp tục kháng cáo. Giết chết một mạng người không thể bị xử lý với mức án nhẹ như trộm cắp, như các tội danh thường khác được. Nếu sinh mạng con người rẻ rúng như thế thì làm sao có thể tin tưởng vào sự công bằng của luật pháp. Gia đình chúng tôi sẽ tiếp tục kháng cáo lên cấp cao hơn.

Chân thành cám ơn bạn và hy vọng rằng những nỗ lực của gia đình bạn sẽ được đáp ứng.

Nguồn: Dân làm báo.
Bài đăng cũ hơn Trang chủ
Loading

Việt 1 Radio - www.vietoneradio.com

  • Recent Posts
  • Video Youtube

Khát Vọng Tuổi Trẻ Video

    khatvongtuoitre.net

Lưu trữ Blog

Khế Ước Xã Hội    Hiến Pháp Trị Là Gì
 
Pháp Luật Là Gì?    Mơ Làm Thủ Tướng Chính Phủ
 
facebook khatvongtuoitre.net
© 2012 Khát Vọng Tuổi Trẻ. All rights reserved.
Provided by blogger